*** QUYỀN LỢI TỔ QUỐC & DÂN TỘC LÀ TRÊN HẾT *** KHAI DÂN TRÍ, CHẤN DÂN KHÍ, HẬU DÂN SINH ***

2011/03/16

Lịch sử văn hóa văn minh Nhật (phần VII)

Lịch sử văn hóa văn minh Nhật
(phần VII)

GS Tôn Thất Trình

Trên phương diện  văn hóa, giữa hai thế chiến,  khác với biến chuyễn văn học  phe hướng theo văn hóa Pháp và Tây phương thắng thế hẳn, xã hội Việt  Nam , như Đào Duy Anh viết ở lời tựa sách " Việt Nam Văn hóa Sử Cương"  ngày 14 tháng 8 năm  1938 :  bi kịch của dân tộc ta là sự xung đột của những giá trị cỗ truyền văn hóa cũ với những điều mới lạ  của văn hóa Tây Phương. Cuối Thế Chiến Thứ Nhất (  1914-1918 ), tuy công nghiệp hóa ở một nước thuộc địa không thể quyết liệt như ở mẫu quốc, cũng đủ tập trung ở nhiều nơi, làm hiện hình những giai cấp mới  vô sản và trưởng giả. Hệ thống cũ Sĩ, Nông, Công, Thương bị đảo lộn, cá nhân được giải thoát  rÀng buộc khuôn khổ gia đình cũng như cọng đồng thôn xóm , nhưng thân phận con người không nhờ thế  mà trở nên  thoải mái hơn xưa.  Giai cấp trưởng giả hửu chủ  , điền chủ và tài chánh  mà tiêu biểu là Đảng Lập Hiến Nam Kỳ- Parti Constitutionnalist Cochinchinois do Bùi Quang Chiêu sáng lập  năm 1923 với  sự cọng tác chặt chẻ của  Nguyễn Phan Long, cả hai là địa chủ giàu có. Đảng này xưng tụng chủ nghĩa quốc gia cách chỉnh ,  không  đòi hỏi lập tức một Hiến Pháp  mà chỉ xin Pháp Quốc Hải Ngoại  dành cho  một số ghế  quan trọng trong Hội đồng Thuộc địa - Conseil colonial và nhiều phương tiện bành trướng ngành thương mãi. Trong lúc ấy,  hạng trung lưu  trí thức tiểu tư sản , thấm nhuần  tư tưởng Âu Tây, muốn kết hợp ( nếu có thể )  với toàn thể  những kẻ vô sản với mục đích  tranh đấu  ngay cho độc lập nước nhà ( Tân Việt Cách Mệnh Đảng, Việt Nam Quốc Dân Đảng ). Song các phong trào này  thất bại, vì không có nguồn gốc trong quần chúng .  Trái lại những phong trào nhân dân được vận dụng ráo riết  trong khuôn khổ  Đông Dương Cọng Sản Đảng, dưới giả dạng Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, gọi tắt là " Việt Minh "  ( Lê Mộng Nguyên, Định Hướng số 54, mùa đông 2008 ). Tưởng cũng nên mở dấu ngoặc ở đây  về chánh phủ Trần Trọng Kim, thường bị những người Cọng sản , các tác giả các sách giáo khoa , các nhà nghiên cứu chuyên môn  ở miền Bắc  thời trước và sau năm 1975 , trực tiếp hay gián tiếp  gọi là bù nhìn , là việt gian, là tay sai của Nhật.  Sau ngày 9 tháng 3 năm 1945,  Nhật đảo chánh  chánh quyền thuộc địa Pháp, chánh phủ Trần Trọng Kim  được hoàng đế Bảo Đại thành lập, chỉ tồn tại một thời gian rất ngắn, từ ngày 17 tháng 4 năm 1945 đến ngày 25 tháng 8 năm 1945. Theo Vũ Ngự Chiêu , đây là một " tai nạn lịch sử  "  cả chính thủ tướng chánh phủ lẫn vua Bảo Đại đều bị đặt vào thế " chẳng đặng đừng, được  khai sinh do nhu cầu  quân sự của Nhật ".  Vượt qua mọi khó khăn , chỉ trong vòng 4 tháng,  Trần Trọng Kim và các cọng  sự viên của ông đã vạch ra những mục tiêu và chương trình hành động cụ thể và thực tế:  từ những việc làm  có tính cách tượng trưng  như đổi quốc hiệu thành Việt Nam, đổi quốc kỳ, duyệt lại quốc ca  …  đến cứu đói, thu hồi toàn vẹn lảnh thổ, bắt các  quan ở các tỉnh phải trực tiếp liên lạc với chánh phủ Việt Nam, cấm họ liên lạc trực tiếp với  người Nhật như họ vẫn liên lạc với người Pháp trước kia, Việt Nam hóa nền giáo dục, cải tổ thuế má tư pháp, vận động thanh niên sinh viên và  cả quần  chúng nói chung  tham gia sanh hoạt chánh trị, xã hội v.v…Ngay cả chỉ trích lớn là nội các Trần Trọng Kim không có bộ quốc phòng , vì thật ra Việt nam khi đó không còn quân đội, cả lính khố xanh phục vụ các quan Nam Triều như đã nói ở các phần trước và lính khố đỏ thuộc các trung đoàn  thuộc địa Pháp đã tan hàng ( bộ trưởng thanh niên  Phan Anh đã phải tổ chức  đoàn thanh niên bán quân sự ),  Lê Xuân Khoa đã khẳng định  là vua Bảo Đại và thủ tướng Trần Trọng Kim  ( mọi tổng, bộ trưởng nội các ! )   không phải là " bù nhìn của Nhật "   và dù nền độc lập của  Việt Nam chưa  hoàn toàn,  vẫn là một thực tại không phải  là "Bánh vẽ " , nhất là so sánh  với những điều kiện  của một quốc gia tự do  và viễn tượng  thống nhất mơ hồ, trong hiệp định sơ  bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946  mà chủ tịch Hồ Chí Minh  phải ký kết  với  đại diện Pháp Sainteny. ( Phạm Cao Dương, số 55,  Định Hướng,  mùa Xuân 2009 ) .

        Tính cách sáng suốt sử dụng bom nguyên tử  là đề tài tranh luận lâu dài. Thả bom  có thể rút ngắn chiến tranh. Tuy nhiên dân Á Châu  vẫn không quên là vỏ  khí  hủy diệt mới và kinh hải đã thả trên một dân tộc Á châu do một Tây Phương Thiên Chúa Giáo. Các vỏ khí qui ước từ búa đá mài nhọn đến giáo mác, đao kiếm , súng ống,  chỉ giết người một thế hệ mà thôi. Bom nguyên tử có uy lực  hủy diệt liền, giết chết nhiều người hơn mà lại còn  ảnh hưởng đến nhiều thế hệ tương lai qua những tai hại bụi phóng xạ trên hệ thống sinh sản con người. Sau chiến tranh, thị trưởng thành phố Nagasaki, cũng như nhiều nơi khác ở Nhật, nói rỏ ràng là dân Nhật  bị sốc và choáng váng vì  bom nguyên tử , nhưng không oán giận dân Mỹ nhiều bằng oán giận, vỡ mộng về tình trạng  khó khăn giới quân nhân Nhật đưa tới cho họ và hoàn toàn  ghê tởm chiến tranh và sử dụng vỏ lực.            

            Chiến bại Nhật ở Thế Chiến Thứ Hai  đưa Nhật, lần đầu tiên trong lịch sử Nhật, bị xâm chiếm và chiếm đóng đất nước dân chúng kiêu hảnh hằng được dạy dỗ là thiêng liêng .  Cho nên bại trận thật là chấn thương, càng sâu xa thêm  khi chí  can đảm và lòng trung thành của sĩ quan và binh lính  của Quân đội Thiên hoàng lại phi thường. Rất ít sĩ quan  chịu bị bắt làm tù binh, thà chết theo kiểu samurai truyền thống  hơn là bị bắt. Vì lựa chọn  chết hơn là đầu hàng  được tăng cường mạnh mẽ suốt thời kỳ chinh chiến theo lệnh của Bộ Chỉ Huy Tối Cao, cho nên Nhật đã phải phái  đến nhiều chiến trường  các hoàng tử và gia đình  Thiên Hoàng cho quân sĩ biết tinh cách chính thức của những lệnh đầu hàng.

            Dân chúng Nhật lo âu cực kỳ về ý nghĩa  cuộc chiếm đóng.  Tin đồn đại loan truyền sẽ có nhiều hảm hiếp và cướp bóc, hôi  của . Rất nhiều đàn bà, phụ nữ bỏ thành thị  về quê.  Cho nên dân chúng  ngạc nhiên khoan khoái khi thấy lính  Mỹ- GI  và một số ít lính Anh, Úc và Tân Tây Lan chiếm đóng, không những đứng đắn mà còn cư xử thân thiện nữa.  Khi thân thiện tăng thêm dần, chức quyền cả hai bên trở nên phần nào  hốt hoảng , khi các quán bán rượu-bar  và ổ điếm  mọc lên như nấm để  phục vụ quân đội chiếm đóng .Tổng quát có thể nói  rằng chiếm đóng  Nhật ttrong 7 năm , từ 1945  đến 1952 là  một  công cuộc sửa soạn tốt đẹp và  thực thi hay nhất  của lịch sử chiến tranh thế giới.  Tâm trạng và phản ứng của dân Nhật  từ các giai đoạn sợ hải, chuyễn qua an tâm, biết ơn, buồn tẻ  và cuối cùng oán giận nhẹ nhàng và đoán trước được. Tướng chỉ huy quân đội Đồng Minh chiếm đóng là  Douglas MacArthur.  Hình thức theo kiểu một shogun  Nhật, cầu kỳ chi tiết vặt  lúc thi hành  nhiệm vụ, nhưng  tôn quí và  xa cách.  Ý thức lịch sử và  số mệnh của MacArthur  có khi tỏ ra  khoa trương  và  tự phụ  đối vởi  những  cảm tính bình đẳng của dân Hoa Kỳ ,nhưng chính những đức tính này phối hợp  cùng tính vô tư ngay thẳng  cơ bản của ông , ấn tượng lớn trên dân Nhật  và  giúp họ  tái tạo  một cảm giác tự tín cần thiết .

         Ngay sau khi chiến tranh chấm dứt  là một  thời kỳ khổ cực và khó khăn cho nước Nhật. Tàn phá khắp nơi và thiếu thốn thực phẩm. Dân thành thị chất đầy các chuyến xe lữa tràn về đồng quê,  cố đổi chác vài vật sở hửu lấy thực phẩm.  Số người thất nghiệp lên đến 13 triệu. Nhật hồi hương thổi phồng dân số  cần nuôi ăn .  Một số lớn binh sĩ giải ngũ , không được nhìn  nhận là anh hùng,  tự thấy không ai ưa thích mình,  và bị khinh bỉ lúc bại trận.  Một số đông  bị thương tích và ăn mặc rách rưới, đi ăn xin dọc các đường phố , mắt nhìn các cô gái Nhật khoát tay,  ôm vai  lính chiếm đóng . Ngay cả những kẻ nhận được thực phẩm  cũng bị bắt  vì buôn bán chợ đen . Dần dần, viện trợ Hoa Kỳ và  dân Nhật làm việc nhọc nhằn,  cải thiện tình trạng, tuy rằng cần vài thời gian công nghệ Nhật  mới  cho thấy sản xuất đáng kể .

        Chỉ thị từ thủ đô Hoa Thịnh Đốn  là Nhật phải phi quân sự và  dân chủ hóa.  Phi quân sự thi hành  êm ả và hoàn thành nhanh chóng. Quân lính giải ngũ và  cơ sở quân sự tháo gỡ. Xét xử chiến tranh và  thanh trừng thực thi  ở nhiều mức độ,  từ năm 1946 đến năm 1948 .  25 quân nhân bị buộc  tội ác chiến tranh chánh  và 7,   kể cả tướng Tojo-Đông Điều bị treo cỗ. Những người  còn lại bị tù chung thân.  Hoàng thân Konoe ,  cựu thủ tướng  thà tự tử hơn là vào  trại tù Sugamo.  5000 tội phạm chiến tranh  bị xét xử ở các nước ngoài Nhật và 900 bị xử tử. 200 000 bị thanh trừng  khỏi công chứic , thư lại căn cứ trên căn bản loại công việc họ làm hơn là bất cứ lý do nào họ có trách nhiệm . Trên  tiến trình dân chủ hóa,  câu hỏi đầu tiên là vị trí  Nhật hoàng. MacArthur thi hành  quyết định thông minh , đã được  cấp cao  hơn của Hoa Kỳ đồng ý, không buộc tội Nhật hoàng là một tội nhân chiến tranh,  dù có nhiều kêu gào nên xử sự như thế,  từ các tay nóng nảy ở Mỹ và giữa các đồng minh . Nhật hoàng được giữ lại vị trí như thể là một tượng trưng cho thống nhất quốc gia  và như thể là đỉnh chủ yếu của vòm cầu xã hộ , hầu bảo tồn  nước Nhật khỏi hổn độn và phân  hủy. Hiến Pháp mới thông qua năm 1946 và thực thi tháng 5 năm1947 qui định minh bạch là   chủ quyền ở trong tay quốc dân Nhật và Nhật hoàng  là một vua lập hiến - Constitutional monarch . Nhiều bảo đảm ghi trong Hiến Pháp  ghi nhận  không những  cho tự do cá nhân , cư trú và tôn giáo  mà còn ở học đường , hàn lâm. Một phần tiến trình dân chủ hóa là chánh sách các chức quyền chiếm đóng  khuyến khích phong trào nghiệp đoàn . Luật lệ lao động giữa các năm 1945 đến năm 1947 cấp quyền tổ chức nghiệp đoàn, thương lượng công cọng và quyền đình công.  Trong 1 năm, số người gia nhập nghiệp đoàn tăng từ 1 triệu lên 4.5 triệu. Các lảnh tụ lao động Mác xít hay Cọng Sản ra khỏi tù chế độ quân phiệt bắt giam, khởi sự nắm giữ  các vị trí lảnh đạo nghiệp đoàn, nhiều đến nổi  các chức quyền lo ngại  và sửa đổi lảnh vực lao động  sau năm 1948 .  Ở thôn quê,  cải cách điền địa là  chương trình dân chủ hóa thành công nhất .

 Một luật chống độc quyền nhắm trực tiếp vào các đế quốc thương mãi của zaibatsu.  83 tổ hợp  công ty bị giải tán  và các tài sản  gia đình bị tịch thu bằng thuế  trên tư bản.  Ở ngành giáo dục,  học đường bắt buộc  tăng từ 6 đến 9 năm , và các sách giáo khoa  mới  nhấn mạnh đến  thể chế dân chủ  thay vì những khuynh hướng  độc đoán. Dấu khắc ý kiến Mỹ  in đậm trên các cải cách giáo dục và trên những tài liệu quan trọng tỉ như Hiến Pháp; vang vọng trong trí người Nhật, vì họ  cũng đang tìm kiếm một lý tưởng khác cho Nhật , thay thế  " tổ chức chánh trị quốc gia - national polity " kokutai , những ngày trước chiến tranh.

    Một thay đổi tình hình quốc tế  nhưng năm 1948- 50  ảnh hưởng nhiều đến   liên hệ Mỹ- Nhật . Năm 1948,  Mãn Châu lọt vào tay  Cọng Sản Tàu  và năm sau  Tưởng Giới Thạch bị bó buộc rời lục địa và thiết lập chánh phủ ở Đài Loan .  Năm 1950  Liên Hiệp Quốc với quân Mỹ tiền phong, đánh nhau với Bắc Triều Tiên ( Bắc Hàn, Bắc Cao Ly )  và Trung Cọng . Theo ánh sáng thực tế chánh trị thế giới, vài  sửa đổi quan trọng  xảy ra ở chánh sách Mỹ. Những chánh phủ Nhật kế tiếp nhau  xem những sửa đổi này là cần thiết, nhưng nhiều dân Nhật  lại xem đó là  cơ hội chủ nghĩa trắng trợn.  Xây đắp một phẩn nộ chống Hoa Kỳ,  bị phe tả Nhật khai thác  và vẫn còn tồn tại  ở những mức độ khác nhau từ đó đến bây giờ .

    Biến chuyễn tình hình   làm cho một Hiệp Ước  hòa bình với Nhật trở nên thèm muốn  qua những kênh  của Ủy Ban  Viễn Đông -Far Eastern Commission ,  Stalin và Tưởng Giới Thạch phản đối.  Cuối  tháng chín năm 1951, đại điện  52 nước họp tại Cựu Kim Sơn - San Francisco ký kết một  hiệp Ước Hòa Bình, mọi điều khoản chánh đã an bài.  Mọi quốc gia đều ký, ngoại trừ  Nga , Ấn Độ và Trung Cọng.  Nhật từ chối  đòi hỏi Triều Tiên ( Cao Ly ), Formosa( Đài Loan ), các đảo Pescadores, Kuriles, Nam Sakhalin và các đảo Thái Bình Dương ủy nhiệm  cho Nhật trước đây. Thủ tướng Nhật  Yoshida Shigeru  thỏa mãn, xem hiệp ước là " công bằng và khoan dung - fair and generous "   và nói rỏ là Nhật  tự xếp hàng chung với  thế giới không cọng sản. Đồng thời với ký kết Hiệp Ước Hòa Bình , Nhật và Hoa Kỳ  cũng cùng nhau kết thúc ký Hiệp Uớc An Ninh - Security  Treaty, trong đó để cho lực lượng Hoa Kỳ đóng  trong và quanh Nhật,  hầu  bảo vệ an ninh  trong và ngoài nước Nhật. Một thỏa hiệp riêng biệt tái lập ngoại giao với  Nga,  được ký kết năm 1956  và ở thời điểm này, Nhật gia nhập Liên Hiệp Quốc.                                    

         Kinh tế Nhật tăng trưởng kỳ diệu  vào thời kỳ hậu chiến, một khi vượt qua những trở ngại ban đầu. Vào thời Minh Trị Thiên hoàng,  tăng trưởng kinh tế  dựa vào phối hợp chánh phủ và các xí nghiệp tư. Viện trợ Hoa Kỳ,  cả công lẫn tư có tầm quan trọng quyết định . Các ngân hàng Nhật cho vay dễ dãi thương mãi, chánh phủ Nhật  cống hiến khích lệ thuế khóa, trừ bớt  mức khấu hao (chiết khấu ) cao. Tổng sác xuất tăng trưởng kinh tế đạt trung bình 10% mỗi năm từ năm  1950 đến năm  1965 , cao nhất là  12.1 năm 1963 và  thấp nhất là 7.5 năm 1965.  Trong khi con số  trung bình ở Đức là 6.1 % , Pháp 5.3 % , Anh 2.4 % và Hoa Kỳ 2.3 % .  Tổng lợi tức quốc gia Nhật  chỉ là 1.3 tỉ  đô la Mỹ năm 1946,  lên 15.1 tỉ năm 1951 , 51.9 năm  1962 và 176  tỉ năm 1968 .

       Thịnh vượng liên tục  Nhật làm nghiêng chánh trị về phe bảo thủ.  Mọi chánh phủ từ thời chiến tranh đến năm  1993 đều thuộc phe bảo thủ,  ngoại trừ thủ tướng  Katayama Tetsy các năm 1947- 48 , Xã hội  trên phương diện chánh trị và Thiên chúa giáo.  Yoshida làm thủ tướng lâu nhất  1946- 47 và  1948- 54 , và là nhịp cầu giữa thời kỳ chiếm đóng và  thời độc lập. Yoshida  kiểm soát các  hoạt động  phá hoại, tái cơ cấu các zaibatsu, và phục hồi lực lựợng cảnh sát, một biện pháp  để  tảp trung  kiểm soát trung ương.  Biện pháp  hướng về  tăng cường quyền trung ương kiểm soát, bớt quyền tự trị địa phương,  được đối thủ và kế nhiệm  Yoshida  là  Hatoyama Ichiro (  1954 - 56 )  tiếp tục, đặc biệt ở lảnh vực gíáo dục.  Ông cũng đã  tái lập bang giao với Nga,  tăng thể tích thương mãi với Trung Cọng  và hai cánh hửu chánh trị  được thống nhất thành  Đảng Dân  chủ tự Do - Liberal  Democratic Party . Thủ tướng  Ikeda Hayato ( 1960 - 64 ) chấp nhận hình thức  ngọai giao ông gọi  là " tư thế thấp -  low posture "  và tập trung nổ lực  vào tăng trưởng kinh tế Nhật lớn hơn nữa. Kế tiếp  Ikeda là  Sato Eisaku, thành công nhờ đi gặp tổng thống Nixon tháng 9 năm 1969  và bảo đảm Mỹ thỏa hiệp  hoàn trả Okinawa về cho Nhật năm 1972. Đảng Tự Do Dân chủ của ông thắng Đảng Xã hội -Socialist Party  tháng giêng năm 1970.      


    12-   Tình trạng  Nhật cho đến năm  1994  về kinh tế , ngoại giao và đời sống chánh trị
 
     Trên ngọn đồi cao hải cảng Nagasaki, một ngôi nhà nhỏ xinh xắn  có vườn kiểu Nhật , xây cất cuối thế kỷ thứ 19  cho một cố vấn công nghệ người Anh Thomas B. Glover, bà Nhật yêu qúi trở thành  nhân vật nữ chánh  của thảm kịch  "Bà Bướm Hoa - Madame Butterfly" của Puccini . Từ điểm lợi thế này , nối liền Đông Phương và Tây Phương , một phía có thể nhìn xuống tiểu đảo cũ Deshima,  nay  bao quanh bằng đất liền  nơi các thương gia Hà Lan bị giam hảm từ năm 1641 . Phía kia là cảnh quan tinh hoa thế kỷ thứ 20 , một khu đóng tàu đồ sộ áp dụng kỷ thuật mới nhất.  Những siêu tàu chở dầu khổng lồ kính thước to lớn đến nổi, phần mủi tàu và phần đuôi tàu  phải  phóng hạ riêng biệt  và hàn lại nhau dưới nước.
    
      Kỳ diệu kinh tế
    
      Đóng tàu chỉ là một thành phần tiên  tiến công nghệ uy vũ  của Nhật  từ cuối Thế Chiến Thứ Hai đến  năm 1994 ( thật sự  từ các năm 1992-93  tổng lợi tức quốc gia Nhật điều chỉnh lạm phát đã giảm, chỉ còn tăng 1-2 %  và giữa các năm 1995- 2000 , có lúc mức tăng trưởng xuống âm , tệ nhất  vào các năm 2008- 2009 ( xem đồ biểu), thường được  gọi là " kỳ diệu kinh tế - economic miracle ".  Dân Nhật có thể biện minh kiêu hảnh về những gì họ đã thực hiện, nhưng vài người Nhật không lý gì đến những từ ( ngữ )  này  vì thành quả  đòi hỏi  làm việc năng nề khó nhọc, liên tục tập trung suy tư và nhiều hy sinh.  Tuy nhiên phát triễn kinh tế  là thừa tố có ý nghĩa nhất, ảnh hưởng sâu đậm đến chánh trị và xã hội Nhật.

        Lẽ dĩ nhiên, lao động Nhật  vượt quá  tầm đóng tàu thủy và tiến mau  đến những giai đoạn  sản xuất cận đại.  Dù thời này vẫn còn nông nghiệp, nhưng Nhật đã tiến xa khỏi  giao đoạn sơ đẳng là nông nghiệp. Dù vẫn  sản xuất thép , đóng tàu thủy và chế tạo máy móc nặng, Nhật cũng đã tiến  quá  khu vực thứ cấp  là chế tạo đến giai đoạn thứ ba- tam cấp, thường được mô tả,   tuy không thích hợp cho lắm,  là khu vực dịch vụ - services hay thông tin - information.  Chúng ta đều biết sản xuất cận đại này  tùy thuộc nhiều vào điện tử - electronics,  gồm có ti vi,  computer , công nghệ robot  và  vô số phương tiện mới truyền thông - communication và kiểm soát .   Nhật là một trong những lảnh đạo thế giới ở những lảnh vực mới này.

          Khu vực nông  nghiệp Nhật dùng nhiều nhân công, khu vực thứ cấp dùng nhiều tư bản và khu vực tam cấp  dùng nhiều tri thức- knowledge intensive.   Cũng còn cần dùng nhiều lao động ở khu vực thứ  ba, nhưng  một thứ lao động khác  đòi hỏi  sửa soạn lớn lao ở ngành giáo dục. Năm 1987 là một cột mốc lịch sử kinh tế Nhật vì năm đó ,  tổng lợi tức mỗi đầu người  - per capita GNP , lần đầu tiên trội hơn Hoa Kỳ .  Năm  1986 , lợi tức mỗi người Nhât , là 16 330 đô la Mỹ,  mỗi dân Hoa Kỳ là 17464 . Nhưng năm 1987 , là 19 642 cho Nhật và 18 403 cho Hoa Kỳ. Động  cơ phát triễn này là công nghệ Nhật,  theo nghĩa cả hai: công ty tỗ hợp và  cá nhân.

        Có công ăn việc làm suốt đời - lifetime employment  cho công nhân  chuyên nghiệp  và  nhân viên ban quản trị. Nhân công  nhận thức là  tốt cho quyền lợi của họ khi cố làm cho công ty , hảng mình thịnh vượng.  Các  quản tri, chóp bu phải  cố giữ,  không phải sa thải nhân công, dù trong lúc  công việc hảng  đình trệ, Hệ thống phong kiến, hiểu theo kiểu Tây Phương, thiết lập căn cứ  trên  cá nhân , gia đình  và trung thành bè đảng - clan loyalty .  Công ty có bài hát riêng, đồng phục riêng ,  ban thưởng riêng  và sinh hoạt xã hội riêng cho công ty.  Đồng nghiệp cùng một công ty  thường  cùng đến cùng một quán rượu hay tiệm ăn , nhậu nhẹt cùng nhau. Nói một cách khác, chính công ty là đời sống của họ.

         Một đặc điểm khác biệt   của công nghệ Nhật là sử dụng nhiều  nhà thầu phụ - subcontractors , những công ty nhỏ chế tạo một bộ phận  của thành sản. Cơ cấu nghiệp vụ  tên gọi là keiretsu, thoát thai từ   các gia đình  trước cận đại và công nghệ thôn xóm, làng xã, tăng mảnh liệt  dưới áp lực cung cấp cho quân sự thời thế Chiến Thứ Hai. Thủ tục này cũng  dược Tây Phương  biết rỏ  đặc biệt ở ngành ô tô , nhưng phát triễn ở Nhật cao độ hơn .

          Một đặc điểm khác đáng nêu ra là tính chất lạ lùng của Nghiệp đoàn Nhật .   Mỗi công ty hay mỗi nơi hoạt động đều có  tổ chức nghiệp đoàn ,  chứ không phân phối theo ngành thương mãi như Tây Phương.  Họ  mặc cả  tập thể với ban quản lý.  Ít khi có đình công- strike và  ngưng việc - work stoppage.   Tuy nhiên, vào thập niên 1970, có  những cuộc đình công ngắn lan rộng  xảy ra đòi tăng lương,  đặc biệt ở ngành vận tải , chuyên chở . Trong một năm, ảnh hưởng đến 38 triệu  người  đi làm việc bằng vé tháng - commuter .

           Đặc điểm thứ tư  của nền kinh tế Nhật, khác với các nước đã mở mang khác là  sác xuất tiết kiệm- rate of saving cao. Tỉ lệ tiết kiệm gia đình  ở Nhật, từ năm 1961 đến năm 1979 là giữa 18.2% và 22.1% , trong khi ở Hoa Kỳ chỉ là 8.8% đến 8.8 % . Năm 1988  con số tiết kiệm hạ thấp chỉ còn  14.8% , nhưng cũng còn cao hơn ở Pháp, một xứ tiết kiệm dân gian  nổi tiếng,  là 12.1 % và 6.6 ở Hoa Kỳ.   Năm 1991,  chánh phủ Nhật báo cáo  là sác xuất tỉ lệ tiết kiệm  xuống mức kỷ lục thấp nhất là 6.5 % , cho thấy  xoi mòn nền tảng  phát triễn kinh tế đã kéo dài  từ lâu .

              Đặc điểm  then chốt thứ năm của ngành công nghệ Nhật là  sự hợp tác  giữa chánh phủ , quản lý  và lao động .   Đây là một nhu cầu khẩn thiết  tái xây dựng Nhật Bổn sau thế chiến Thứ Hai, vẫn còn tiếp diễn tới nay.   Hợp tác  này có thể là một hình thức yêu nước - patriotism và  bày tỏ  tinh thần đoàn kết - solidarity , kể từ khi hình thức quân phiệt mất hết uy tín.  Khi có một yếu tố bên ngoài  đe dọa  Nhật,  dù  nhẹ nhàng đi nữa,  chánh phủ , quản lý công ty,  lao động  thắt chặc lại hàng ngũ  để đối đầu ngoại bang , thỏa thuận ngầm ,  để ra một bên,  cạnh tranh và bất đồng nhau, sẽ giải quyết sau. Thành công lớn nhưng không phải duy nhất, tuy gây ra nhiều phản nộ ở ngoại quốc, là một cánh tay của chánh phủ  Bộ Công nghệ và Thương mãi Quốc tế  Ministry  of Internatioanal  Trade and Industry, biết tên theo tiếng Nhật hay tiếng Anh là MITI.  Bộ này đóng  vai trò khảo cứu , phát triễn và xác định những thị trường quốc tế tiềm thế xuất cảng . Nay còn  tham gia đề cao cả nhập cảng nữa .  MITI  cũng còn khuyến cáo  các ngân hàng chánh phủ  cấp tư bản hiểm nguy - venture capital  vài công nghệ được xem là  sinh tử cho  quyền lợi quốc gia Nhật ở một thời điểm nào đó.  MITI hửu hiệu nhất khi bảo đảm được nhất trí - đồng thuận  giữa chánh phủ, lao động và quản lý, trên  những vấn đề  và hướng chỉ đạo  phát triễn công nghệ.   

        Vai trò kỷ thuật cao cấp - cao kỷ .

          Cao kỷ không phải là xa xỉ phẩm mà là một thiết yếu cho Nhật. Đối với một xứ đảo tài nguyên thiên nhiên giới hạn , hầu  sống còn  trên thế giới hiện tại,  thật là bắt buộc ngành công nghệ chế tạo nước nhà ,  phải có  một thừa tố giá trị công thêm rất cao. Nghĩa là mỗi ngày mỗi nhiều thêm khéo léo  chuyên môn, tri thức hiểu biết và phức tạp  phải cọng vào càng ít nguyên liệu càng hay,  lúc làm ra sản phẩm  nếu muốn bán sản phẩm  lợi nhiều.  Lợi này  cần có để trả tiền  mua  các nguyên liệu thô hiếm có  và để duy trì mức sống tiêu chuẩn  xã hội Nhật mới đã  trở nên quen thuộc .  Đó là ca- trường hợp của  Vương quốc Anh thế kỷ thứ 19 và 20  và lúc này là  của Nhật Bổn,  mức độ còn cao hơn.  Phân biệt giữa các khu vực của các nền kinh tế  Nhật năm 1988  như sau : sơ cấp - nông nghiệp  2.3 %  tổng số nền kinh tế,  thứ cấp - công nghệ chế tạo 34.9% ,  tam cấp- dịch vụ   với thừ a tố  giá trị cọng thêm cao nhất 62.8 % .  Giai đoạn cuối này  đưa tới tên gọi là  " xã hội hậu công nghệ - post industrial society ".  Chính ở lảnh vực cao kỷ , gồm  các sản phẩm ô tô và điện tử ( máy ti vi,  các máy ghi âm viđêôcassette, robôt  và computer )  Nhật, thật là trác việt, ưu tú.

        Cú sốc dầu lữa

        Không thể nói rằng là kinh tế Nhật tiên tiến không đứt quảng.  Nhật không có nguồn  dầu lữa nội địa , và cần nhập cảng hoàn toàn từ ngoại quốc .  Suốt thời kỳ cú sốc dầu lữa 1973- 74,   Nhật nhận 83% cung cấp dầu lữa từ các nước Ả Rập và Iran . Tháng 11 năm 1973 , các nước Ả Rập áp lực Nhật  phải cắt đứt ngoại giao  với Israel và chấp thuận  cung cấp vỏ khí cho các nước Ả Rập.   Đổi lại, các nước này sẽ  tuyên bố Nhật là " nước thân thiện "  và nhận cung cấp không ngừng dầu lữa. Nhật từ chối .  Chánh phủ đã thi hành một dự án chống lạm phát, bớt tín dụng, thiết lập luật lệ  dầu lữa khẩn cấp, và đông lạnh giá gạo. Ngân sách năm 1974  tuy gọi là " ngân sách khắc khổ " vẫn cao hơn những năm trước.  Lạm phát  19 % là một vấn đề  khó giải quyết.  Năm 1974 cũng là năm thâm thủng cán cân thanh toán ( tiền tệ ) vì giá dầu lữa cao. Từ năm 1976 đến 1978, tình trạng cải thiện rỏ rệt. Lạm phát chỉ còn 3.5 %.  Cán cân thương mãi quá nghiêng về Nhật đem lại gây cấn với Hoa Kỳ. Thủ tướng Fukuda  hứa với tổng thống Carter  giữa năm 1978,  sẽ cố giảm thặng dư ngoại thương và  giảm bớt xuất cảng sang Hoa Kỳ. Nhưng húa hẹn không thực hiện. Thiếu dầu lữa là vấn đề liên tục , gây ra thâm thủng cán cân tiền tệ  một lần nữa vào năm 1979. Có nhiều dự án  mở rộng  sử dụng năng lượng nguyên tử , ngoài  21 nhà máy điện nguyên tử hoạt động năm 1980.  11 đơn vị mới đang được xây cất  và  thêm 3 nhà máy được dự trù , tăng số tỉ điện nguyên tử lên thêm 2/3 .  Điện nguyên tử ở Nhật  năm 1990   gần gấp đôi điện nguyên tử ở Anh  và bằng 1/3 điện nguyên tử ở Hoa Kỳ. 

          Xuất cảng xe hơi

            Từ năm 1955 , hảng xe hơi Đức Volkswagen là hảng bán nhiều nhất xe nhập cảng vào Hoa Kỳ . Xe Datsun Nhật  khởi sự bán ở Hoa Kỳ năm 1960  và năm 1975  đã bán nhiều hơn Volkswagen. Năm 1976 , xuất cảng xe hơi Nhật  trên mọi thị trường thế giới  là cao nhất, kế theo  sau xa là xe hơi Pháp .  Năm đó, 62 % xe Nhật bán ở Hoa Kỳ sản xuất ở Nhật .  Bộ Thương mãi Hoa Kỳ  quy  sự yêu chuộng xe Nhật  là xe Nhật bán giá rẽ hơn , nổi tiếng về phẩm  giá xe,  và mạng lưới  bán xe rất hửu hiệu .  Ở thời điểm này,  sản xuất ô tô Hoa Kỳ lớn hơn Nhật , nhưng đến giữa năm 1980,  Nhật trở thành nước sản xuất  xe hơi và xe vận tải - cam nhông lớn nhất thế giới .                          

            Không có gì đáng ngạc nhiên là Hoa Kỳ phản ứng .  Chủ tịch Nghiệp doàn  Công Nhân Ô tô Thống nhất - United Automobile Workers  Douglas
Fraser nói  hành động của Toyota và Nissan là " bạo ngược" , xuất cảng không chỉ là ô tô  mà còn là thất nghiệp sang Hoa Kỳ.  Vì năm 1980, 200 000  thợ thuyền ô tô Hoa Kỳ thất nghiệp.  Fraser đi Nhật, thuyết phục  các hảng Nhật thiết lập sản xuất xe hơi  ở Hoa Kỳ, giới hạn số xe hơi xuất cảng, nếu không sẽ bị hiểm nguy các rào cản  luật lệ  bảo hộ mậu dịch.  Honda tuyên bố  lập xưởng ráp xe ở bang Ohio. Toyota và Nissan dự tính  những di chuyễn tương tự .  Để tránh luật lệ bảo vệ mậu dịch Hoa Kỳ , chánh phủ Nhật  tuyên bố tháng  6 năm 1981  là sẽ tự nguyện  giới hạn xuất cảng xe sang Hoa Kỳ. Dự tính lập những  công ty chung  chế tạo ô tô  thành thực tế: Isuzu/ General Motors ở Nhật năm 1982,  Toyota / General Motors ở California   năm 1983, Mitsubishi/Chrysler  ở Illinois năm 1985, Nissan/Ford ở Ohio năm 1988.

             Xuất cảng đồ điện tử

             NipponTelephone andTelegraph ( NTT) và International Business Machines ( IBM )  thỏa thuận năm 1985  lập một mạng lưới computer ngay ở Nhật. Năm 1989, Toshiba  lập nhà máy làm computer đầu tiên ở Âu Châu tại Regensburg, Đức . Công ty điện tử lớn nhất ở Nhật chấp nhận  cho các hảng Hoa Kỳ và các nước khác làm bán dẫn - semiconductors   thông báo trước về  nhu cầu Nhật sắp tới , mục đích tăng 20 % về xuất cảng ngoại sang Nhật món đồ điện tử mới này , nhưng hoài nghi về giá trị thỏa thuận vẫn tồn tại.  Đến năm 1994 , phần ngoại quốc ở thị trường Nhật  là 14.4 % và không gia tăng . Tháng 6 năm 1992, MITI , trong một thế chuyễn động bất thường tuyên bố là  cống hiến cho bất cứ ai khỏi trả phí  thế hệ thứ 5 phần mềm ( nhu liệu )- software. Dự án thế hệ thứ 5  bắt đầu từ năm 1982  trên một cố gắng   sản xuất computer với khả năng lý luận, cho nên " thông minh nhân tạo - artificial intelligence " của nó  sẽ thực hiện được nhưng nhiệm vụ tỉ như  chẩn bịnh ,  phân tích các vụ kiện  cáo  và thông hiểu ngôn ngữ . Dự án không đạt các kỳ vọng và đã bị hủy bỏ chánh thức . Tuy vậy,  dự án thứ 5  có nhiều ảnh hưởng  lý thú  trên lịch sử computer - điện ( tử) toán. Dự án đã huấn luyện  hàng trăm kỷ sư Nhật về khoa học computer tiên tiến . Chẳng hạn có khả năng thực hiện vài chức năng lý luận  cao tốc  nhờ sự giúp đở đến 1000 vi xử lý -processors song song.  Nó còn báo động cho các kỷ sư Hoa Kỳ  là sẽ bị hiểm nguy , bị bỏ  theo sau xa về phát triễn.  Một tổ hợp các công ty Hoa Kỳ  được thành lập để  hợp tác về khảo cứu căn bản.  Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ khởi sự  một dự án  rộng rải, họa kiểu những hệ thống thông minh, kể luôn cả một hệ thống  điều khiển xe tăng không người lái.

             Tốc độ khảo cứu  tuồng như  gây ra một ưu điểm kiểu răng cưa trong việc phát triễn  ti vi định nghĩa cao - high definition television ( HDTV ) .  Ngân  sách khảo cứu chánh quyền Bush  cho HDTV năm 1990 là 30 triệu đô la Mỹ,  đối với Nhật là 1 tỉ đô la . Năm 1991, tổng thống Bush  cắt hết ngân sách khảo cứu này.  20 năm  khảo cứu giúp Nhật  sản xuất năm 1994 ( ? )  hệ thống  tương suy - analog system sẳn sàng bán ra thị trường.  May mắn  là công ty Mỹ và ngoại quốc khác   tiếp tục  các con đường khảo cứu riêng cho mình  và chuyễn sang kỷ thuật  ti vi kỷ thuật số - digital television technology ,  một con đường Nhật không lựa chọn, làm cho kỷ thuật tương suy của Nhật lỗi thời …   

            (  Phần lớn liên hệ đến Nhật đều trích dẫn theo sách " Nhật Bổn " xuất bản lần thứ ba năm 1994,  của giáo sư sử học Tàu và Nhật W. Scott  Morton ,  viện đại học Seton Hall ) 




Con Dân Nước Việt là những người đặt Tổ Quốc lên bản vị tối cao, tối cao có nghĩa là trên tất cả mọi vật, kể cả tôn giáo, đảng phái, và cả chính bản thân mình.


No comments:

Post a Comment