Lịch sử văn hóa văn minh Nhật
(phần III)
GS Tôn Thất Trình
6- Thời kỳ Kamakura ( 1185- 1336 ) hay thời kỳ chánh phủ quân sự Shogun
Sau khi thắng trận Dan-no- ura năm 1185 , Minamoto Yorimoto hiển nhiên làm chủ nước Nhật. Ông đạt địa vị này sau một kế họach lâu dài và suy nghĩ cặn kẻ, luôn luôn cũng cố địa vị ông trên phương diện chánh trị , nhưng lại trao quyền hành quân cho người khác , tỉ như cho Yoshitsune, có tài hành quân hơn ông . Tuy nhiên địa vị của ông vẫn còn ảo hơn là thực. Ông cố tâm làm cho mình không còn bị tấn công được nữa bằng các biện pháp hành chánh họa kiểu can đảm và đơn giản, kềm theo vài vụ ám sát thận trọng. Uy quyền của Yorimoto căn cứ trên giới chiến sĩ mới . Ông đắn đo thiết lập và duy trì trật tự ưu đải này . Cương vị vỏ sĩ samurai được định nghĩa và điều hòa, và không một ai có thể khẳng định địa vị - thân thế này, nếu không có phép của Yorimoto. Samurai thường là chiến sĩ cỡi ngựa mặc áo giáp khắp người và có cờ mang theo huy hiệu mình. Lẽ dĩ nhiên là có nhiều loại chiến sĩ - chinh phu khác , không có thân thế samurai, đi bộ chiến đấu và mặc áo giáp mỏng. Một giới nhỏ hơn và được ưu đải hơn là go- kenin hay "gia tộc đánh kính trọng". Phải là thân thế samurai trước rồi mới được gia nhập go- kenin, nhưng thật ra hai loại nguồn gốc khác nhau: samurai xuất thân từ hàng ngũ quân sự , còn go-kenin là liên hệ thái ấp, phong kiến .
Ba bộ phận trung ương chánh quyền Kamakura là Samurai -dokoro , Mandokoro và Monchujo. Samurai - dokoro ( " phòng Dịch vụ hay phòng Trật tự ") , thường được dịch là Ban Tùy Tùng- Người Hầu ( Board of Retainers ) . Ban này lo mọi việc làm nhiệm vụ quân sự, thưởng phạt các chiến sĩ; nhưng sau đó nới rộng quyền uy đến những lĩnh vực lớn rộng hơn, lưu tâm đến đời sống riêng tư của binh sĩ, hôn nhân của họ , bạn bè, tiêu khiển, tóm lại những gì liên quan đến lòng trung thành tối hậu đến cấp trên.Thời chiến tranh, Samurai-dokoro đảm trách chức vụ của Bộ Tổng Tham Mưu. Mandokoro hay Hội đồng - Council, cấp cao nhất làm chánh sách cho nền cai trị của Yoritomo. Đứng đầu Mandokoro là một giám đốc hay Shikken. Sau năm 1203, Hojo Tokimasa giữ chức vụ này và trở thành cha truyền con nối cho dòng họ ông. Bộ phận thứ ba là Monchujo hay Ủy Ban Điều tra - Board of Inquiry . Bộ phận tòa án này là tòa án kháng cáo cuối cùng , quản trị luật nhà Minamoto. Thoạt tiên giới hạn vào gia tộc Minamoto và các tùy tùng, nhưng vì luật này là luật duy nhất của đất nước Nhật đương thời, giải quyết mọi tranh tụng khắp xứ , ngay cả các nhà quí phái từ kinh đô, cũng khởi sự đến Kamakura xin xét xử . Năm 1190, Yoritomo được phong chức tước danh dự cao nhất là Nairan . Nhưng chức vụ ông khao khát là Shogun - Mạc Phủ hay Thống chế chỉ huy Quân sự ( Tướng Quân ) Suprême Military Commander, chỉ huy mọi lực lượng quân đội dưới danh nghĩa của hoàng đế Nhật. Nhưng Go- Shirakawa không muốn phong chức này cho ông . Mãi đến năm 1192 Go- Shirakawa chết, hoàng đế vừa ẩn dật Go- Toba mới phong cho Yorimoto chức Shogun.
Thật ra chức Mạc Phủ ,Tướng Quân- Shogun đã có từ thời chiến tranh xâm chiếm chống tộc dân Ainu. Hoàng đế Nhật phong chức vị này cho một tướng đặc biệt , giới hạn trong một thời gian thôi. Tuy nhiên, Yoritomo lại xem chức vị này là quyền cho ông và các tử tôn ông vĩnh viễn để cai trị Nhật, dưới danh nghĩa của hoàng đế . Chánh phủ ông và các con cháu kế tiếp được xem là bakufu - chánh quyền lều chỏng lính "Tent government" hay chánh quyền quân sự. Sau khi Yoritomo chết năm 1199, uy quyền Shogun -Mạc Phủ không còn nằm lâu dài trong tay gia đình ông nữa, mà lọt vào tay gia đình Hojo, trước tiên là Tokimasa, cha vợ Yoritomo, rồi đến con Tokimasa là Yoshitoki , và cháu là Yasutoki. Các ông họ Hojo này không thật sự là shogun , nhưng họ thật sự nắm quyền hành, nhờ giữ chức shikken- giám đốc Hội Đồng Mandokoro, Hojo Tokimasa dành được năm 1203. Lúc này, chức vụ Shogun trở thành hư vị, thường do một hoàng tử máu mũ hoàng đế nắm giữ. Thế nhưng dòng họ Hojo đã trung thành cũng cố địa vị, dù họ khởi sự bằng bạo lực và đã cống hiến cho Nhật bổn gần một trăm năm tương đối yên tĩnh. Một điều dị thường lạ lùng trổi dậy ở chánh phủ Nhật là một hệ thống cai trị gián tiếp phức tạp không tìm thấy ở bất cứ nơi nào trên thế giới . Ở Kyoto, hoàng đế trên danh nghĩa, nhường quyền cho một nhiếp chánh Fujiwara. Nhiếp chánh này lại nhường quyền cho một hoàng đế đi tu hay ẩn dật . Nhưng hoàng đế lại không thực sự nắm quyền mà trao lại trước hết cho một shogun quân sự mạnh mẽ; rồi thì lại do một nhiếp chánh dòng họ Hojo ở Kamakura thực sự cầm quyền dưới danh nghĩa của Shogun .
Suốt thế thứ 13 còn lại , các nhiếp chánh Hojo duy trì được hòa bình nội địa. Chính họ cũng nêu gương sống thanh đạm , căn cơ và thi hành trung thành chức vụ . Thế nhưng vào quý thư tư thế kỷ này , một đe dọa lớn xảy ra ở nước ngoài. Triều Tiên không đủ mạnh và Trung Quốc cũng không đủ tham vọng tấn công Nhật bổn. Nhưng dân Mông Cỗ là một điều khác hẳn , vì nhiệt tâm không nguôi Mông Cỗ chinh phục thật là không bờ bến. Triều Nguyên- Yuan hay Mông Cỗ chiếm lĩnh toàn thể Trung Quốc năm 1280, Sau khi đánh bại nhà Nam Tống - Southern Sung và nhà Nguyên theo lịch sữ Tàu trị vì ở Trung Quốc từ năm 1280 đến năm 1368 . Thật sự Mông Cỗ đã chiếm miền Bắc nước Tàu khoảng năm 1230 . Hốt Tất Liệt - Khubilai, Đại Hãn Mông Cỗ đã thiết lập kinh đô ở Bắc Kinh ( Bắc Bình ngày nay ) năm 1264. Triều Tiên không chống nổi và bị Mông Cỗ chiếm đóng. Năm 1268, Hốt tất Liệt gửi một sứ giả sang Nhật đòi Nhật phải thần phục. Triều đình Nhật muốn điều đình , nhưng Hojo Tokimune và hội đồng Quốc gia quyến định chống cự và gửi trả phái đoàn sứ giả về Tàu , không trả lời và không biết đến. Tướng già kinh nghiệm 60 tuổi Hojo Masamura được cử đảm trách công cuộc phòng thủ. . Một sứ giả Mông Cỗ khác bị đuổi cổ khỏi Nhật năm 1272: đúng là một tuyên chiến. Mông Cỗ tấn công năm 1274 dùng một lực lượng gồm 25000 quân Mông và quân Triều Tiên, đổ bộ ở Vịnh Hakata , phía Bắc Kyushu. Quân Mông là một kẻ thù đáng kinh sợ và có ưu điểm là quân thành thạo về cách sử dụng kỵ binh đông đảo cùng máy phóng - catapults phóng " bom" lữa. Nhưng quân Mông không có đủ chỗ để hành quân . Quân Nhật một lòng dạ nhiệt tình bảo vệ xứ sở ,sử dụng kiếm - cung hửu hiệu đến nổi bẻ gãy được cuộc tấn công của quân Mông ít nhất là một phần nào trận đánh nhau lần thứ nhất .Đêm đến, quân Nhật rút lui vài dặm Anh sâu vào nội địa và núp sau các lũy đê đã dựng lên làm công sự phòng thủ trước đó. Giông tố đang nổi lên và các hướng dẫn viên Triều Tiên khuyến cáo là nên lên thuyền bỏ về, nếu không các thuyền binh sẽ bị nằm dưới gió. Vì một lý do nào đó, các chỉ huy Mông lo sợ Nhật tấn công trong cơn mưa gió , dù rằng quân Nhật thật tình đã mõi mệt không còn sức tấn công nữa. May mắn cho quân Nhật là quân Mông quyết định rút lui chỉ sau một ngày đánh nhau. Bảo tố sau đó đã đánh đắm nhiều thuyền binh Mông và nhiều binh sĩ chết chìm .
Năm 1281, Mông Cỗ lại tấn công Nhật lần thứ hai, quyết định hơn lần trước, tập trung 140 000 binh lính , trong số này có khoảng 100 000 người từ các tỉnh miền Nam Trung Quốc, Mông Cỗ vừa mới chinh phục xong. Quân Hoa Nam này không có lòng dạ đánh nhau dưới danh nghĩa của Mông Cỗ. Quân xâm lăng đổ bộ nhiều lần dọc bờ biển Kyushu , đặc biệt ở Vịnh Hakata. Nhưng nơi này Nhật đã xây đắp xong lũy tường đá ngăn cản Mông Cỗ dùng kỵ binh sở trường. Các chiến sĩ Nhật anh dũng chống cự và chận đứng quân Mông Cỗ hai tháng và không cho quân Mông Cỗ nới rộng đầu cầu bờ biển . Trong khi đó , thuyền chiến Nhật nhỏ hơn nhưng dễ dàng điều động hơn đánh thiệt hại nặng các thuyền binh Mông Cỗ ở vùng vịnh biển eo hẹp . Hai ngày 15 và 16 tháng 8 năm 1281 , đem đến giải thoát cho Nhật . Một trận bảo lớn gió thổi trên 120 dặm Anh, làm hư hại nặng hơn nữa đoàn chiến thuyền Mông Cỗ. Phần lớn binh lính Mông Cỗ và Hoa Nam để lại trên bờ biến thành mồi ngon cho các kiếm Nhật hoan hỉ. Nhật ca tụng bảo tố này là một câu trả lời cho cầu nguyện gọi là Thần Phong - Wind of the Gods , kamikaze . Bakufu duy trì chiến lũy Kyushu hơn 20 năm nữa, nhưng sau cuộc thất bại này , Mông Cỗ không bao giờ trở lại tấn công Nhật bổn .
Khác với ở Việt Nam, giặc Mông Cỗ xâm lăng 3 lần, trong thế kỷ thứ 13 bị đánh bại nảo nề các năm 1258 , 1285 và 1288. Lần thứ nhất vào tháng giêng 1258 , trước cuộc tấn công vào Nhật 16 năm . Bấy giờ , Hốt Tất Liệt đang tiến hành cuộc chiến tranh xâm chiếm Trung Quốc . Bên cạnh những đạo quân ồ ạt đánh vào đất Tống, một đạo quân khoảng 40 000 người, gồm kỵ binh Mông Cỗ và binh lính người Tráng - Choang hay Thoán Vân Nam ( và Quảng Tây ? ) do tướng Ngột Lương Hợp Thai - Uryangquadai chỉ huy từ Vân Nam đánh xuống Đại Việt. Vua Trần Thái Tông ( Trần Cảnh ) đã đem quân lên chặn giặc ở Bình Lệ Nguyên bên sông Cà Lồ . Thế mạnh giặc ban đầu khiến quân ta phải rút lui để bảo toàn lực lượng. Sau đó bỏ luôn Thăng Long lại phía sau , nhưng triều đình và quân dân không nao núng . Giặc đóng ở Thăng Long trong một thành trống , khốn đốn vì thiếu lương thực. Ngày 29 -1- 1258 , vua Trần Thái Tông đem binh thuyền ngược sông Hồng, đánh bật quân địch khỏi kinh thành, giặc phải chạy theo đường cũ về Vân Nam . Cuộc xâm lăng thứ hai xảy ra cuối năm 1284 , do Thoát Hoan - Togan , con trai Hốt Tất Liệt và A Lý Hải Nha - Ariquaya chỉ huy , bị Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn và quan binh nhà Trần tiêu diệt ở các trận Tây Kết , Hàm Tử , Chương Dương , Vạn Kiếp . Xâm lăng lần thứ ba cuối năm 1287 , đoàn thuyền Mông Cỗ chuyễn lương bị đánh bại ở vùng đảo Vân Đồn, đoàn thuyền chiến của Ô Mã Nhi- Omar bị mai phục đánh tan ở sông Bạch Đằng ngày 9-4 - 1288, tàn quân Thoát Hoan khốn đốn rút chạy ra biên giới bị chận đánh, đến ngày 19-4 1288 mới về đến Tư Minh, Trung Quốc .
Theo quan điểm Mông Cỗ , thất bại ở Nhật không lấy gì làm quan trọng cho lắm. Các hoàng đế Trung Quốc không bao giờ xem các đảo xa khơi này như là một mối đe dọa hay một giá trị đáng kể , chỉ là một danh dự, một cố gắng hoàn tất chinh phục. Thế nhưng chiến thắng đối với Nhật bổn là một giải thoát thần diệu. Đây là một cố tâm xâm lăng đất Nhật linh thiêng đầu tiên trong lịch sử Nhật và cũng là lần cuối cùng, mãi cho đến Thế Chiến thứ Hai. Cho nên không lạ gì kinh nghiệm chiến thắng này đã ấn tượng mạnh mẽ lâu dài trong trí óc dân Nhật và ký ức kamikaze được tái xuất để gọi tên các cuộc tấn công tự tử của các phi công Nhật. Theo Nhật, chiến thắng đánh bại quân Mông Cỗ là một trong những trận chiến tranh quyết định của lịch sử thế giới.
Khía cạnh tôn giáo , thoát khỏi ách Mông Cồ được nhấn mạnh trong niềm hân hoan nhà sư Nichiren ( 1222- 1282 ) tuyên bố là đã tiên tri cuộc ngoại quốc tấn công coi như thể là một trừng phạt các nhà lảnh đạo Nhật và một khải hoàn tương lai Nhật. Học thuyết của Nichiren là một phối hợp giữa các đức tin Phật giáo với chủ nghĩa quốc gia dân tộc nhiệt thành. Cá tính bốc lữa của ông tuồng như cảm hứng cho các tín đồ một thái độ cuồng tín để đối phó khủng hoảng đương thời. Ông tóm tắt trong câu Namumyoho rengekyo - Hoan hô Luật Phi thường của Kinh Phật Hoa Sen ( Lotus Sutra ). Ông tỏ ra ít khoan dung các môn phái khác như các lảnh tụ Phật Giáo lúc đó và chỉ trích chức quyền đã ủng hộ các giáo chức giả dối. Ông bị các nhiếp chánh Hojo kết án tử hình, nhưng thoát khỏi đao phủ khi một sét đánh đúng vào đao. Bị đày ra một đảo cô quạnh Biển Nhật, Nichiren đã viết: "chim khóc nhưng không nhỏ nước mắt . Nichiren không khóc, nhưng nước mắt Nichiren không bao giờ khô . " Nichiren ở Kinh Phật Hoa Sen tự gán mình là một nhà tiên tri tương trưng cho lòng yêu mến Phật Giáo và Nhât Bổn , vì ở tên ông, nichi - mặt trời có cả hai nghĩa là Ánh Sáng của Sự Thật Và Đất Nuớc Mặt Trời Mọc và ren là hoa sen.
Nichiren không phải là giáo chức ( Kinh Phật ) nổi tiếng duy nhất bấy giờ. Chúng ta đã kể ra các môn phái Zen vào thời kỳ Kamakura. Ảnh hưởng hai nhà sư môn phái Đất Nước Thuần Khiết- Pure Land là Honen ( 1133 - 1212 ) và Shiran ( 1173- 1262 ) cũng rất lớn.
Các nhiếp chánh Hojo mất hết quyền uy, khi vùng Kanto nổi loạn và lảnh tụ Nitta Yoshida tiến đánh Kamakura, đánh bại nhiếp chánh Hojo cuối cùng một cách bất ngờ và đốt Kamakura ra tro. Trong 50 năm, từ 1136 đến 1392, có hai dòng muốn tranh nhau ngôi hoàng đế , dòng miền Nam ở một vị trí ở các núi phía Nam Kyoto, gọi là Yoshino và dòng Bắc ở Kyoto. Tướng Ashikaga Takauji thắng trận, đưa tới thời đại shogun Ashikaga : phần thứ nhất đến năm 1392 có tên là Nambokucho - Thời Kỳ Nam Bắc phân tranh ( như Trịnh Nguyễn ở Việt Nam ? ).
7 - Thời kỳ shogun Ashikaga ( Nambokucho 1336-1392, Muromachi 1392- 1572 ) , Thống Nhất Nhật bổn 1534- 1615.
Mạc phủ - Tướng quân Ashikaga khác với Yoritomo là không bao giờ kiểm soát được toàn thể nước Nhật, chỉ nắm vững được 8 tỉnh miền Đông Họ phải luôn luôn mặc cả hổ trợ với các đại điền chủ và các lảnh chúa uy vũ. Thời đại dòng họ Ashikaga như vậy là một thời đại luôn luôn có chiến tranh với đồng minh tan rả và tái lập và trọng tâm quốc gia chuyễn xa khỏi kinh đô đến các điền trang lớn và các dinh trang phong kiến. Không có một triều đình tòa án- công lý mạnh mẽ, trung ương, phong kiến giúp Yoritomo cũng cố cai trị, và quyền lực hoàng đế yếu kém hẳn đi vì chia rẽ các triều đình Nam , Bắc . Tình trạng xáo trộn ở thời kỳ này thật rỏ rệt trên sự kiện là kinh đô Kyoto thay đổi chủ nhân 4 lần từ năm 1353 đến năm 1355. Sáp nhập hai triều đình Nam - Bắc năm 1392 làm ra thời kỳ phụ Ashikaga Muromachi, lấy tên một quận kinh đô Kyoto .
Sau khi hai triều đình sáp nhập, trong nữa thế kỷ 15 không xảy ra chinh chiến lớn giữa các lảnh chúa địa phương. Nhưng không thể nói là đã có hòa bình, vì xảy ra nhiều bạo động điền địa quan trọng. Nông dân bất mãn lập ra các hội liên minh tên gọi là ikki để tự bảo vệ. Ikki biến thành một nổi loạn do một hội tạo ra, vì đói kém năm 1420 và tiếp theo cũng là đói kém và dịch tể năm 1425. Năm 1428, một đạo quân lớn nông dân nổi loạn đầu tiên tập trung ở gần kinh đô. Những nổi loạn như thế sau đó xảy ra thường xuyên và nhiều đám đông đổ xô vào các dinh thự, cư xá phá phách các tiệm rượu sakê, cầm đồ và chùa chiền, tất cả những ai cho vay nợ , mục đích xé bỏ chứng cớ nợ nần. Chánh quyền bakufu cố xóa bỏ nợ nhiều lần nhưng không có hiệu quả và quyền uy bakufu trở thành tối thiểu vào năm 1441. Hai năm sau, chính ngay kinh đô cũng bị dân nổi loạn tấn công. Cố gắng bi thảm vô ích cuối cùng là cuộc chiến Onin. Các năm 1467- 77, shogun thứ tám Yoshimasa bị các vấn đề chánh phủ không giải quyết nổi tràn ngập và thật ra ông ta muốn hưởng thụ nghệ thuật hơn là cai trị. Ông muốn rút lui ở tuổi 30 và hai dòng họ hùng cường Hosokawa và Yamana muốn vào chỗ trống này. Tháng 5 năm 1467, hai bên đánh nhau ngay chính ở thành phố Kyoto. Thành quả của nhiều tháng đánh nhau và lữa cháy thật tai hại cho kinh đô đẹp đẻ và văn minh Kyoto. Năm 1473, cả hai thủ lãnh Hosokawa và Yamana đều chết. Ouchi, thủ lảnh mới của Yamana rút lui khỏi Kyoto và đầu hàng Shogun.
Thời kỳ phân tán phong kiến dưới quyền Ashikaga trùng với thời gian kinh tế Nhật phong kiến phát triễn mạnh . Thời phong kiến thứ nhất dưới quyền Yoritomo thời kỳ Kamakura, rồi đến thời các nhà nhiếp chánh Hojo đã thấy chuyễn động hàng hóa và dân gian nhiều hơn hẳn thời Nara ban sơ vào thế kỷ thứ 8 và và bắt đầu Heinan vào thế kỷ thứ 9. Thời kỳ Kamakura khéo léo kỷ thuật đã làm lan tràn chế tạo đồ gốm , giấy và đúc sắt. Taira Tadamori và Kiyomori cũng đã để ý tới giao thương với Trung Quốc và đã đề xướng dịch vụ này bằng cách ra công cải thiện các tiện nghi ở các hải cảng Biển Nội Địa Nhật. Nhưng tăng thêm giàu có và đời sống dân gian , nổi bật nhất là vào thời kỳ Ashikaga. Một sự kiện đủ chứng tỏ điều này ; năng xuất nông nghiệp tăng hai ba lần hơn tại nhiều nơi trong nước, nhờ cải tiến các phương pháp canh tác và tổ chức thành các đơn vị kinh tế lớn hơn mới nông trang phong kiến. Kinh tế vẫn tiến triễn , nội địa hay giao thương với Trung Quốc, dù điều kiện rối loạn. Chiến tranh ở thế kỷ thứ 14 và thế kỷ thứ 15, đã tạo ra yêu cầu ở nhiều vùng Nhật xa xôi và làm giao thông tốt hơn là một thiết yếu tại đất lành cũng như trên biển cả . Thủ công nghệ mở rộng để thõa mãn đòi hỏi chiến tranh và khi hòa bình, làm nông cụ hay những đồ xa xỉ tỉ như tơ sợi, đồ sơn - lacquers và nhiều đồ khác mà các lảnh chúa nay đủ sức mua sắm . Cùng lúc , tình trạng rối loạn cũng khiến cho các thương gia và các thủ công kết hợp nhau để cùng bảo vệ nhau, theo một hệ thống gọi là za hay phường hội - guilds, đã có từ thế kỷ thứ 12 , nay phát triễn mạnh. Za có nghĩa là một chỗ ngồi bán hàng ở chợ búa, thường liên kết với hội chợ đền thờ - chùa chiền dưới sự che chở của một thể chế tôn giáo mạnh. Xếp đặt cọng sinh giữa các tu sĩ và các thương gia có lợi cho cả đôi bên. Thương gia có lợi trả lệ phí cho chùa và khi cần, để chùa giúp đở khi họ thưa kiện lên tòa hay bakufu là quyền lợi họ bị xâm phạm. Tài liệu còn ghi rỏ là chùa giúp đở thu hồi nợ . Chẳng hạn theo thời gian, za bán áo quần bông vải liên kết với đền thờ Gion , za làm men rượu với đền thờ Kitano . Các thủ kho, đồng thời là các chủ tiệm cầm đồ liên kết với thể chế tôn giáo Enryakuji ở Núi Hiei , một trong những tu viện mạnh nhất Nhật bổn. Những đại gia cũng đóng vai trò đỡ đầu tương tự: Bojo đỡ đầu các nhà làm giấy, Kono đỡ đầu các thủ công làm vàng lá và Kuga đỡ đầu phường hội" đĩ quý phái - courtesans". Độc quyền địa phương bán một vài loại đồ đạc là một đặc điểm của phường hội Trung Cỗ Âu Châu và yếu tố này cũng thực thi ở Nhật bổn. Cũng có nhiều chứng cớ tỏ ra là các phường hội họp lại nhau, nhưng chưa bao giờ mạnh như đại phối hợp Liên Hội-Hanseatic League ở Bắc Âu. Giao thương vói Trung Quốc tỏ ra rất lợi. Nhật nhập cảng sắt, tơ sợi , thuốc men và các xa xĩ phẩm như sách vỡ, tranh ảnh, đồ thêu ; xuất cảng đồng và lưu huỳnh và một vài hàng xa xỉ Nhật chế tạo giỏi tỉ như quạt, đồ sơn, và khí giới đặc biệt là kiếm và bộ giáo - rìu chiến . Năm 1483, Nhật bán sang Trung Quốc 37 000 kiếm. Giao thương Trung Quốc là do các thương gia, thường cũng là hải tặc, giặc cướp biển - pirates, nhưng ranh giới giữa hai nghề này ít khi vạch rỏ ở bất cứ nơi nào trên Cựu Thế giới. Sau năm 1469, một gia tộc là Ouchi, ngự trị ở miền Tây đảo lớn nhất Nhật, độc quyền buôn bán với Trung Quốc, mãi cho đến khi họ bị một chư hầu lật đổ năm 1557. Shogun, bakufu thật sự không dính dáng đến thương mãi. Phần lớn thương mãi do các chùa chiền Phật giáo Nhật đảm trách , chứng minh vai trò quan trọng của Phật giáo ở xã hội Nhật. Nhà sư -chính khách Muso Soseki, môn phái Zen, tổ chức một chuyến thuyền sang Trung Quốc năm 1342 , dưới sự hổ trợ của shogun đầu tiên là Askhikaga Takauji. Tiền lời chuyến này đã giúp ông xây dựng đền chùa Tenryuji temple. Tu viện Nhật không những tài trợ các chuyến thương mãi mà còn phát triễn hải cảng nữa. Chẳng hạn, đền chùa Sumiyochi kiểm soát quyền lợi hải cảng Sakai và tu viện cỗ Kokufuji ở Nara quyền lợi hải cảng Hyogo ( nay là Kobê ) .
Thời kỳ Shogun Ashikaga từ năm 1378 đến năm 1490 được mệnh danh là thời đại hoàng kim của nghệ thuật Nhật Bổn. Mạc phủ - tướng quân Ashikaga có bộ mặt khác hẳn các Mạc phủ Yoritomo và các nhiếp chánh Hojo. Khi Ashikaga chiếm địa vị chủ trì, trọng tâm quốc sự một lần nữa chuyễn về vùng Kyoto. Đời sống văn chương và nghệ thuật luôn luôn vây quanh triều đình nhưng ít hấp dẫn shogun đầu tiên. Nhưng dòng Shogun Ashikaga thứ ba Yoshimitsu trở thành shogun năm 1368 và shogun thứ tám Yoshimasa nhận chức năm 1443 và chết năm 1490, cả hai đều ham mê nghệ thuật và rất hào hiệp bảo trợ nghệ thuật. Yomimitsu lãng phi chi tiêu cho các xẩy cất đến nổi gần xài hết ngân khố. Yoshimasa nhiều khả năng và sáng tạo hơn như thể một nhà phê bình và ân nhân tinh tế của kiến trúc, hội họa và bi kịch. Đương thời, ông là một công cụ chánh yếu làm thành thời đại được biết là thời đại nghệ thuật Nhật to lớn nhất.
Bản doanh của Ashikaga là ở quận Muromachi của Kyoto, như chúng ta đã biết và năm 1378, 10 năm sau khi ông lên chức Shogun, Yoshimitsu xây dựng Hana- no - Gosho , Hoa Dinh- Palace of Flowers , có nhiều vườn lộng lẫy. Ông tiếp tục xây cất một dinh thự xa hoa làm nhà ẩn dật tôn giáo, di dưỡng tinh thần ở Kitayama, dựng lên Đình tạ nổi danh Kinkaku hay Đình tạ Vàng Kim - Golden Pavilion, bị lữa đốt cháy rụi năm 1952 và phục hồi lại y hệt như xưa.
Ginkaku hay Đình tạ Bạc - Silver Pavilion , ở phía Kyoto khác do Yoshimasa ủy nhiệm làm một thành phần nơi ông định ẩn dật Higashiyama. Đất đai xung quanh và các vườn hoa là những cảnh trí trầm tư và hoạt động sáng tạo cho những nhân vật nổi tiếng ở nhiều lảnh vực nghệ thuật và bi kịch - Naomi, Geiami, Soami , Kanze và họa sĩ tài ba Sesshu , vào những năm cuối cùng thế kỷ thứ 15. Từ ngữ Bạc nhắc đến vài trang trí dự trù chưa bao giờ thực hiện. Đình tạ yên tĩnh và tự kiềm chế, dựng lên ở rìa một hồ nhỏ, có đá bước qua suối, tiểu đảo và cầu cũng bằng đá do các lảnh chúa khắp Nhật đem tới. Trên đất là một đền thờ và gần đó là một gò đồi cát trắng Đắp cao thành hình nón làm ra một nền ngắm trăng, nền vọng nguyệt - moon viewing platform. Ngay sau đền là một xây cất nhỏ bốn chiếu- mats rưỡi ( phòng ốc xưa cũ Nhật do bằng tiêu chuẩn tatami - chiếu đan cỏ khô 6x3 bộ - feet Nhật ). Đây là phòng ốc trà thất lễ lạc - tea ceremony room Nhật đầu tiên .
Tính chất khiêm tốn và lặng lẽ của trà thất Nhật đáng bình phẩm thêm. Ai bước vào trà thất phải để ra ngoài long trọng, tráng lệ và hoàn cảnh thế giới. Vì cửa phòng thấp nên chỉ vào được bằng tay và qùi gối thái độ khiêm nhường, không được lộ ra kiếm dao các samurai thường đeo. Khi đã vào khách viếng phải cư xữ hợp nghi thức và dè dặt , nhưng bên trong thoải mái khi ngắm nghía, phê bình ấm, bình, chén cỗ dùng cho buổi lễ hay tán thưởng cách cắm hoa đơn giản hay một cuộn sách - giấy treo. Thông thường , khách không bình phẩm áo kimono hay tài khôn khéo của bà chủ tiệc làm lễ đơn giản trong thông thạo - simple in neatness ( simplex munditiis). Nhưng khách cần chú ý tới cách bà sử dụng tay và mọi cử chỉ, khi bà trình bày những động cử phong tục sửa soạn và dâng mời trà xanh , gạt cả mỗi sủi bọt con con, tuần tự cho mỗi khách. Những cử động này y hệt tiến triễn và chòng chành một lối vũ lễ nghi. Cả một phương cách, dù lạ lùng và tẻ nhạt đối với dân Tây Phương , nhưng đầy ý nghĩa đối vói mọi dân Nhật. Phối hợp sự thoát ly ra khỏi mọi lo lắng trên thế giới, thưởng thức nghệ thuật, trò chuyện trí thức, tôn trọng một lề lối phẳng lặng và mến thương hay lễ nghi- mọi điều này trong khung cảnh trầm tư Phật giáo- giúp cho linh hồn Nhật một cảm giác tươi mát và hạnh phúc. Một vườn rêu rong phải hiện diện trước mặt một trà thất .
Shogun Yoshimitsu khuyến khích phát triễn bi kịch no, một hình dạng cỗ điển sử dụng phối hợp các vật liệu khiêu vũ, âm nhạc và thơ thành một loại mới và đặc thù. Tính chất no cũng giống như tính chất neng Trung Hoa, có nghĩa là một kẻ am hiểu khéo léo. Các kịch no là những diễn xuất am tường phối hợp thi ca hát, kịch điệu bộ câm - mime, và vũ điệu chậm kềm theo nhạc y phục chi tiết và mặt nạ. Đề tài lây trong vương quốc huyền thoại, lịch sử và ảo thuật. Một phần biểu diễn no có tên là saragaku hay " kịch khỉ - monkey plays " mộy yếu tố hề thô tục liên kết với các lễ nghi sinh đẻ. Sau đó yếu tố hài kịch tồn tại riêng rẻ ở kịch kyogen ,giữa các khoản nghỉ trình diễn đứng đắn kịch no. Đặc điểm này tương tự tiến trào song song của bi kịch và hài kịch ở Hy Lạp cỗ. . Ở cả hai ca Nhật và Hy Lạp , hài kịch phụng sự mục đích nghệ thuật cống hiến một an ủi nhẹ nhàng, sau khi chức năng tôn giáo của hài kịch đề xướng mẫn đẻ - fertility và đẩy xa các ảnh hưởng ma quỉ, đã bị quên lãng. Ngày nay ở Nhật, kịch no dành cho những kẻ lõi đời, khôn ngoan. Người Nhật trung bình thích xem kịch " máu chảy và sét đánh" trực tiếp kabuki hơn.
Thời kỳ Sengoku -Jidai , thời kỳ đất nước chiến tranh 1534 -1717, cũng là thời kỳ Nhật Thống Nhất. Vài thống nhất xúc động và trung thành đã luôn luôn có mặt nuôi nấng bằng huyền thoại quốc gia và sau đó bằng các lý tưởng Khổng giáo. Phát triễn văn chương và tư duy ở thời kỳ Heian cũng đã phát sinh cảm giác thống nhất văn hóa. Một đôi chút thống nhất chánh trị cũng đã do Minamoto Yorimoto rèn luyện ra, sau các chiến tranh tộc bộ ở thế kỷ thứ 12. Nhưng tranh chấp giữa các lảnh chúa đã làm chiến tranh liên miên khắp kéo dài đến 250 năm. Cuối thế kỷ thứ 16, Nhật trở thành thống nhất và thanh bình, theo cảm giác toàn diện và dứt khoát hơn. Niên đại này gần trùng điệp với niên đại cũng cố thành quốc gia các nước ở Âu Châu, đặc biệt thời các vua Anh Tudor khôn khéo tập trung quyền lực. Nhưng ở Nhật, kiến trúc sư công cuộc thống nhất là các tướng chứ không phải các vua. Thống nhất đưa Nhật vào một thời kỳ thanh bình và đồng nhất lịch sử Nhật, thời kỳ Mạc phủ Tokugawa, kéo dài cũng 250 năm. Dù nội chiến ở thời kỳ Aghikaga và chiến tranh Onin đẩm máu vô ích , cũng có nhiều yếu tố tăng trưởng và phát triễn tích cực. Tăng trưởng đáng kể nội thương và ngoại thương , các thị trấn thương mãi bừng lên , cải tiến nông nghiệp, đưa tới những thay đổi lớn khung cảnh quốc gia. Ranh giới giai cấp giữa các chiến sĩ quí phái một mặt và dân giả bình thường , các con buôn , các nông dân mặt khác trở nên mù mờ hơn. Mọi điều này dẫn tới suy thoái phong kiến, nhờ những vùng rào - đất lọt vào giữa, tự túc và thù địch lẫn nhau, làm cho thống nhất xứ sở có thể làm được và mong muốn. Đáng kể là cuối chiến tranh Onin, chỉ còn khoảng 20 lảnh chúa địa phương lớn - daimyo. Những thay đổi xã hội này cũng xảy ra ở Âu Châu, cùng thời gian. Tuy nhiên, trên một khía cạnh , lịch sử Nhật lại theo một con đường khác. Thống nhất hoàn tất không phải bằng cách bải bỏ phong kiến , nhưng làm " đông giá " phong kiến, sử dụng vài yếu tố phong kiến nên đồng thời cũng làm Nhật cô lập với ảnh hưởng bên ngoài có thể tạo ra những thay đổi mới ( chiếu theo sách Đông Á, Đại truyền thống - East Asia, The Great Tradition của Reishauer và Fairbank ).
Thay đổi mau lẹ và làm giật mình ở Nhật vào cuối thế kỷ thứ 16 , không thể xảy ra nếu không có sự cố súng hỏa mai - musket. Trên một khôi hài lịch sử, sự cố súng hỏa mai gắn liền với Thiên Chúa giáo đến Nhật . Năm 1542, một thuyền Bồ Đào Nha - Portuguese trên đường tới bờ biển Trung Quốc bị chìm ở bờ biển Kyushu và các súng hỏa mai trên thuyền sau đó được Nhật sao chép khéo léo. 7 năm sau năm 1549, giáo sĩ Dòng Tên - Jesuit tiền phong Francis Xavier lên đất Nhật ở Kyushu và khởi sự công trình truyền giáo, rất thành công. Đây không phải là lần thứ nhất và lần cuối Tây phương đem tới một xứ không Tây phương ,những lực lượng uy vũ và bùng nổ các sáng kiến và ý nghĩ Tây Phương, thường mâu thuẩn trái ngược nhau. Tuy nhiên ở Đông cũng như ở Tây, các mâu thuẩn không được cảm giác vào thế kỷ thứ 16. như thể chúng ta cảm giác chúng vào thế kỷ thứ 20.
Dòng Tên Cơ Đốc giáo La Mã đóng vai trò rất quan trọng trong cuộc tiếp xúc thời lịch sử mới bắt đầu giữa Âu Châu và Đông Á. Một trong những lý do sự hửu hiệu này là vì Dòng Tên là một dòng tu cận đại,vừa mới được thiết lập, nhấn mạnh đến hiểu biết hàn lâm, khoa học và thực tiễn và một kỷ luật cao cấp. Thiết lập viên Dòng là một nhà quí phái Tây Ban Nha, sinh viên đại học Ba Lê, tụ tập quanh ông một nhóm người khả phi thường. Khi Đức Giáo Hoàng chấp nhận đề nghị nhóm phụng sự đặc biệt cho Giáo Hội bất cứ nơi nào trên thế giới, họ lập ra Hội Dòng Tên - Society of Jesus. Xavier trở thành nhà truyền giáo cho Viễn Đông. Tiến triễn Cơ Đốc Giáo ở Nhật do Xavier khởi xướng là nhờ hai cơ may. Thuở ban đầu, Nhật bổn và Bồ Đào Nha rất thiện cảm nhau . Dân Bồ Đao Nha thích dân Nhật hơn bất cứ một dân Á Châu nào khác, có lẽ vì họ thiện cảm quy tắc danh dự Nhật. Phía Nhật, dân Nhật cảm phục Dòng Tên vì họ thổ lộ một kỷ luật tương tự các nhà sư Zen giỏi nhất . Rất nhiều daimyo chuyễn đạo là những tín đồ Thiên chúa giáo thành thực và trung thành . Công trình truyền giáo Dòng Tên thành công quá sức, khiến cho các chức quyền Phật Giáo hoảng sợ , dùng đủ áp lực trên Chánh phủ đuổi các giáo sĩ Dòng Tên ra khỏi kinh đô . Họ rút lui về Sakai , một thành phố độc lập, nhưng không có bao nhiều ảnh hưởng trên giới buôn bán. Năm 1582 , Hội Dòng Tên ở La Mã cho biết ở Nhật có 150 000 tín đồ và 200 nhà thờ.
Vào thời kỳ này , như đã nói trên, Nhật bổn chín mùi cho Thống Nhất, nhưng nhiệm vụ không hoàn thành một cách dễ dàng đâu. Ba kẻ mạnh - Oda Nobunnaga ( 1634- 1582 , Toyotomi Hideyoshi( 1536-1598 ) và tokugawa Ieyasu ( 1543- 1616) đã thực hiện thống nhất Nhật Bổn. Nobunaga tự tử chết năm 1582&nbsIIp; thân thể bi đốt cháy, bị một tì tướng Akechi đánh úp bất thình lình lúc thăm viếng nghĩ ngơi ở đền thờ trong Kyoto. Một năm sau khi Nobunaga chết, Hideyoshi đánh bại một tướng trung thành với Nobunaga là Shibata. Bấy giờ Hideyoshi đã kiểm soát , gián tiếp hay trực tiếp 30 trong số khoảng 60 tỉnh Nhật . Hideyoshi giảng hòa cùng Tokugawa Ieyasu , một đồng minh phía đông và khởi sự cũng cố địa vị và tiến hành một chánh sách hòa bình. ông thiết lập một lâu đài ở Osaka , gần kinh đô, vì ông cho đó là nơi tốt nhất để kiểm soát Nhật, ở vị trí tu viên thành lũy Ikko tại Hoganji , Osaka đã bị phá hủy. Ông đã ra lệnh nghiên cứu điền thổ , đất dai , một bước tiến tương đương Sách Địa bạ Anh của Nhà Chinh phục William ( năm 1086 )- Domesday Book of William the Conqueror. Công cuộc nghiên cứu bắt đầu năm 1583 và tiếp tục đến năm 1598, năm Hideyoshi chết; lúc này đã có địa bạ của tất cả mọi tỉnh Nhật. Năm 1587 , Hideyoshi thắng trận quyết định gần sông Sendai, chống Shimazy , một daimyo ở cực nam Satsuma. Trở về căn cứ , Hideyoshi ban hành một biện pháp bình định gọi là " Săn Bắt Kiếm Taiko- Taiko's Sword Hunt" , có hai mục đích : tịch thu mọi kiếm, ngoại trừ kiếm của samurai khiến cho nông dân, nông dân quý tộc, tu sỉ nhà binh không còn khí giới nổi loạn và cũng để phân biệt rỏ ràng giữa giới samurai và giới nông dân. Nhưng còn đồng bằng Kanto và cực Bắc, cần bó buộc phải lệ thuộc. Hideyoshi đem 200 000 binh lính vây hảm thành Odawara, trung tâm Hojo ở vùng Kanto . Odawara đầu hàng ngày 4 tháng tám năm 1590. Daimyo chánh miền Bắc được kêu tới và chịu phục tùng. Cuối năm 1590, Hideyoshi đã làm chủ cả nước Nhật.
Ở Việt Nam, vào thời kỳ này , phải kể đến Thiên Nam tứ chí lộ đồ và Hồng Đức bản đồ xuất bản thời vua Lê Thánh Tông( 1460- 1466 ) còn lưu trữ đến ngày nay . ( Hà Mai Phương và Chu Thu Hằng - Dòng Việt, 2000 )
Thời Hideyoshi, Thiên Chúa Cơ Đốc Giáo tiếp tục thịnh vượng như thời Nabunaga. Thành phố Nagasaki thực tế do các giáo sĩ Dòng Tên cai quản và thương mãi Nhật - Bồ Đào Nha tăng gia. Nhưng năm 1587, bổng nhiên các nhà truyền giáo nhận được một pháp lệnh cấm truyền đạo Thiên Chúa và họ phải rời bỏ Nhật trong vòng 20 ngày. Hai lý do pháp lệnh nêu lên là vài đền thờ Phật bị phá hại và người Nhật bị bán làm nô lệ. Một số giáo sĩ đáp thuyền trở về xứ. Nhưng chừng 100 giáo sỉ ở lại và trốn núp bí mật do các giáo dân mới nhập đạo che chở, giúp đỡ. Theo thời gian họ nhận xét là việc cấm đạo ít khi thi hành. Số tín đồ nhập đạo tiếp tục tăng mau và năm 1596 , tổng số tín đồ lên đến 300 000 người , trong đó nhiều tín đồ thuộc giới thượng lưu quý tộc Nhật. Thanh niên Nhật bắt đầu bắt chước thời trang Bồ Đào Nha, có khi đeo cả chuổi tràng hạt và thánh giá. Một số từ Bồ Đào Nha được ngôn ngữ Nhật thâu nhận, tỉ như pan - bánh mì , karuto - carto bài tây, tempura ( tôm chiên )- quattor tempura. Một đảo ngược chính sách tái diễn, năm 1597, một năm trước khi Hideyoshi chết. Trong một cơn giận, ông ra lệnh tra tấn và giết chết 26 tín đồ Thiên Chúa giáo, 6 giáo sĩ dòng Franciscan Tây Ban Nha , 4 giáo sĩ dòng Tên Bồ Đào Nha và 17 dân Nhật tin đạo .
Năm 1550, Bồ Đào Nha thành lập một giáo đoàn dòng thánh Đa Minh - Dominicains ở Malacca ( nay thuộc Mã Lai Á - Malaysia ) phái giáo sĩ Gaspar da Cruz đến hải cảng Hà Tiên giảng đạo, nhưng không có kết quả gì, vì dân chúng tin tưởng ở Ấn Độ giáo , Phật giáo , và không ưa chuộng những gì mới lạ của Âu Châu. Giáo khu dòng Đa Minh cũng phái hai giáo sĩ Y Pha Nho ( Tây Ban Nha ) đến Cao Mên, nhưng họ bị dân chúng bạc đải, buộc phải trở về . Năm 1593, ba thuyền chiến, tàu chở 120 binh sĩ Y Pha Nho đến Cao Miên viện binh cho Miên chống Tiêm La ( Thái Lan ngày nay ). Các tàu này ghé lại Hội An - Đà Nẳng ? ( Touron - Tourane) tiếp tế lương thực . Người Y Pha nho gây lộn và người Nhật, có người Việt ủng hộ , đốt một chiếc tàu , hai tàu kia chạy ra biển , để lại trên bờ biển giáo sĩ Diego Aduarte và một tu sĩ khác. Trong thời gian buộc cư trú ở xứ Đàng Trong, có lẽ Aduarte đã bắt đầu công cuộc truyền giáo . Đó chỉ là một phỏng đoán cho đến khi các giáo sĩ Dòng Tên từ Goa , Malacca tập sự ở Macao đến Hội An - Faifo mới thu được kết quả .( Phan Khoang : Việt sử xứ Đàng Trong, 1967 )
Sự cố cuối cùng của Hideyoshi là xâm lăng Triều Tiên - Cao Ly, một chiến địch động viên 250 000 người. Chiến dịch khởi đầu tháng tư năm 1592, chiếm hải cảng Pusan và thủ đô Hán Thành - Seoul dễ dàng, tiến tới tận biên giới Mãn Châu và toàn thể xứ Triều Tiên. Sau bất ngờ đầu tiên, Cao Ly phản công bằng du kích. Đau ốm và mùa đông lạnh lẻo đã làm chết 1/3 binh lính Nhật. Trung Quốc tuyên bố Cao Ly là chư hầu Tàu và hoàng đế nhà Minh xua một đạo quân đánh Nhật ở Cao Ly. Nhật phải rút lui . Nhật dùng dằng giữa nên hòa hay nên chiến, khi sứ giả triều Minh đến thương lượng ở Kyoto, muốn trao danh vị Hoàng đế Nhật cho Hideyoshi. Nhưng Hideyoshi mất bình tĩnh với sứ giả Minh, sửa soạn một chiến dịch mới năm 1597. Trung Quốc gửi thêm một đạo quân và quân Nhật, dù đã được tăng viện , bắt buộc phải tháo lui về bờ biển phía Nam Cao Ly. Nhờ viện binh Nhật từ Satsuma tới, Nhật giữ được Pusan và thắng nhiều trận đánh quânTàu và quân Cao Ly. Chiến tranh bất phân thắng bại này , kéo dài cho đến khi Kideyoshi chết, năm 1598. Nhật lấy cớ này để rút quân khỏi Cao Ly và chấm dứt chiến tranh .
Kế tiếp Hideyori là Tokugawa Ieyasu, sinh năm 1543 từ một họ daimyo nhỏ là Matsudaira, giữa hai họ lớn Imagawa và Oda. Khi Hideyoshi mất , ông đã có uy quyền lớn nhất ở Hội đồng Nhiếp chánh, có nông trang cho lợi tức 2 500 000 koku , 4 lần cao hơn tài sản của 4 thành viên Hội đồng. Tưởng cũng nên biết là thái ấp - đất phong của 5 thành viên Hội đồng chiếm 1/3 giá trị tất cả đất phong ở Nhật bấy giờ. Mục đích chánh của Ieyasu là gìn giữ nền thống nhất Nhật. Vị trí ông đạt được có nhiều người thèm muốn và ganh tị. Năm 1600, Uesugi nổi loạn ở miền Bắc, nhưng bị hai daimyo trung thành với Iweyasu kiềm chế . Ieyasu lo ngại Mitsunari hơn, vì ông này thu thập nhiều đồng minh và tiến đánh từ phía Tây. Mitsunari bị đánh bại ngày 21- 10-1600 tại đèo Sekigahara, giữa đồng bằng phía đông Hồ Biwa và đồng bằng bao quanh thành phố Nagoya. Dù rằng các chỉ huy các trung đoàn là cựu quân nhân cuộc Chiến Tranh Triều Tiên và binh lính đông hơn, nhưng chỉ huy Kobayakawa trở cờ theo Ieyasu, bất ngờ đánh vào các chỉ huy theo Mitsunari . Chiến thắng này của Ieyasu là một trận chiến khốc liệt , tàn sát dã man và cũng là trận chiến cuối cùng của nội chiến lâu dài và kiệt quệ trên đất Nhật cho đến ngày nay .
Năm 1614 , Ieyasu quyết định không cho dòng họ Hideyoshi tiếp tục chế độ hái ấp , vì các thái ấp có thể biến thành nơi quy tụ các người bất mãn. Không một daimyo nào cứu trợ con trai trẻ tuổi của Hideyoshi, nhưng ronin - nhóm samurai không chủ lại tập hợp ủng hộ Hideyoshi trẻ , tăng đoàn quân trú phòng lâu đài Osaka lên đến 90 000 người . Hidetada, vâng lệnh cha Ieyasu, tiến đánh cứ điểm này , không phá nổi phòng thủ , nên mùa đông 1614 giảng hòa với các cố vấn cho Hideyoshi, nhưng mùa hè năm sau bội ước và tấn công lại. Bị tràn ngập, Hideyoshi tự tử; mẹ là Yodogimi bị giết chết dưới tay một kẻ giữ thành, hầu tránh khỏi bị bắt. Nay Ieyashu thành lảnh tụ nước Nhật , không còn ai thách thức nữa. Ông đã tái lập thể chế bakufu và năm 1603 ông đã được hoàng đế phong làm shogun.
8- Thời kỳ Mạc Phủ - Shôgun Tokugawa Phần I ( 1615- 1715 ) và Phần II ( 1716-1867)
Thời kỳ Phần I Mạc Phủ- Shôgun Tokugawa ( 1615- 1715) là thời kỳ Nhật bổn
thanh bình và thịnh vượng . Tokaido , " Con đường Biển phía tây " giữa kinh đô cũ Kyoto và kinh đô mới Edo đầy nhóc người , kẻ du hành doanh vụ, kể hành hương phối hợp khoái lạc và du lãm. Nếu họ thấy một đoàn diễu hành lảnh chúa lớn ngồi kiệu từ Edo , có khi đến hàng trăm , hàng ngàn người, họ phải lãng tránh ra xa, hay quì mọp hai bên đường cho đến khi lảnh chúa đi qua khỏi. Nếu một thường dân nào đó tỏ vẽ không kính trọng khuôn phép thì thật là xấu số, vì võ sỉ samurai có quyền hợp pháp kirisute - "chém xuống và bỏ đi " quyền giết miễn hình phạt, không cần hỏi, giải thích gì cả.
Đó là những diễu hành thủ lệ sankin- kotai tới lui Edo hay ""chầu chực thay phiên" do Mạc phủ đặt ra là daimyo, cứ năm cuối mỗi hai năm phải đến 4 tháng ở triều đình Shôgun và 8 tháng còn lại về ở dinh trang mình. Khi họ trở về dinh trang, họ phải để lại Edo các bà vợ và gia đình làm con tin , để chứng tỏ cư xử tốt đẹp. Từ thay phiên có nghĩa là mỗi loại daimyo được chia ra làm hai: một ở lại chầu chực , người kia về dinh trang . Đây là phương cách shogun ngăn ngừa các lảnh chúa nổi dậy , buộc các lảnh chúa tiêu xài tài chánh mục đích quân sự vào những hình thức dân sự, sinh sống thực hiện đúng theo cấp bậc mình. Shogun còn cấm các lảnh chúa sửa chữa , cũng cố hay nới rộng thành lũy ở thái ấp mình, nếu không được phép và phải góp tài chánh xây dựng công trình công cộng, gồm luôn cả các lũy thành Tokugawa. Hai biện pháp khác có tính chất kiểm soát cảnh sát là thiết lập hai hạng giám sát - censors ; cấp cao cung cấp tình báo bí mật cho bakufu về các daimyo , và cấp thấp là " nhóm năm nhà - ngũ gia liên hệ " trong giới nông dân, có trách nhiệm chung gìn giữ thanh bình , thu thuế hay xóa bỏ giao ước trong nhóm . Một đề phòng khác, rút kinh nghiệm thời nội chiến là cấm bất cứ một daimyo nào liên lạc trực tiếp với hoàng đế , mọi chuyện phải qua người ủy quyền của shogun ở Kyoto.
Tổ chức chánh phủ Tokugowa , tối thiểu dưới thời Ieyasu , dần dần đi sâu vào chi tiết , hình thức hóa dưới thời những kẻ kế vị ông, cho đến khi thành dạng như sau, vào thời Ieemitsu , shogun thứ ba ( 1621- 51 ) . Tairo " Các Huynh trưởng Lớn - the Great Elders" cố vấn cho Shogun về các vấn đề chánh sách quan trọng và cai trị nhiếp chánh khi một đứa con còn vị thành niên.Thoạt tiên có 3 Tairo, sau đó chỉ còn một . Roju hay "Hội đồng Huynh trưởng- Council of Elders ", nguyên thủy chỉ hai người, cuối cùng là bốn người, một hệ thống luân phiên mỗi người một tháng. Ngoài việc cố vấn , Huynh Trưởng còn nhiệm vụ giám sát bộ máy thư lại chánh quyền , bao phủ các vấn đề daimyo, và các tu viện, liên hệ với triều đình hoàng đế, công tác công cộng và đúc tiền - coinage. Hyojosho " Hội Đồng Công Lý- Judicial Council " thành lập bằng cách cọng thêm vài cao ủy - commissioners vào các cố vấn Roju . Những cao ủy này , ngoài việc cai quản các bộ - thị chánh phủ còn có nhiệm vụ hành chánh và toàn án tỉ như chán phủ thị trấn , báo cáo hoạt động các daimyo, các tổ chức tôn giáo và tái chánh các đất sở hửu Tokugawa . Thành quả tổ chức cai trị này đúng là biểu lộ một quốc gia cảnh sát, công an mà mục đích là duy trì tình cảnh nguyên trạng càng chặc chẻ càng hay .
Thúc đẩy mạnh mẽ duy trì nguyên trạng , giải thích việc khủng bố giáo hội Thiên Chúa ở Nhật vì giáo hội càng ngày càng được xem là tay sai các lực lượng ngoại quốc . Thời kỳ Hidetada ( 1616-23) , con và kế vị Ieyasu , khoảng 700 tín đồ Thiên Chúa Giáo bị xử tử. Một số giáo dân nhiều hơn nữa phải rời bỏ gia cư, sinh sống nghèo khổ thảm hại. Cao trào khủng bố xảy ra các năm 1637- 38 vào thời shogun thứ ba Iemitsu , khi 37 000 nông dân , đa số là dân theo Thiên Chúa giáo hùa theo nổi loạn của ronin và các giới khác, tuyệt vọng vì chánh phủ cai trị xấu xa và tình trạng kinh tế yếu kém ,tại pháo đài cũ bán đảo Shimabara. Bakufu cần 100 000 binh lính, 3 tháng trời, với sự giúp đỏ hải quân Hà ( Hòa ) Lan bắn phá từ biển mới dẹp xong loạn. Tàn sát thật là kinh tởm và chỉ một vài người trốn thoát. Sau cuộc nổi loạn Shimabara thất bại, giáo hội Thiên Chúa bắt buộc phải trốn núp. Gíáo hội Cơ Đốc La Mã ghi danh 3125 cá nhân tử vì đạo - martyrdom , trong số này không ghi danh các người chết không tên ở Shimabara. Tiếp theo Nổi loạn Shimabara , Bakufu đuổi ra khỏi xứ tất cả con buôn và kẻ truyền giáo Bồ Đào Nha, kết tội tử hình những dân Nhật nào muốn đi ra ngoại quốc hay trở về xứ , và chỉ cho phép đóng tàu - thuyền mới , giới hạn thể tích là 2500 giạ ( bushel ) - 36.3 lít, nghĩa là chỉ vừa đủ để buôn bán dọc bờ biển, không giao thương ngoại quốc được nữa. Các con buôn Tàu bị kiểm soát gắt gao và chỉ dân Hòa Lan - Dutch , người Âu Châu duy nhất được phép vào Nhật mà thôi . Thể lệ bakufu này rất quyết liệt vì tất cả một phái đoàn ngoại giao Bồ Đào Nha đến Nhật điều đình tái lập giao thương nhanh chóng bị xử tử .
Quyết định Nhật bế quan tỏa cảng thi hành thành công vào thế kỷ thứ 16 . Gíup Nhật thêm vững bền và đoàn kết nội tình vào thời gian Nhật cần hai yếu tố này trong xã hội. Nhưng điều khôi hài là sự kiện bế quan tỏa cảng xảy ra , lúc thế giới còn lại mở rộng đó chào trao đổi cùng nhau hàng hóa và tư tưởng nhiều hơn cả cứ lúc nào , từ trước đến bấy giờ. Sác xuất thay đổi xã hội và kỷ thuật ở Tây Phương trở nên mau lẹ trong vòng hai thế kỷ tiếp theo năm 1640 , trong khi ở Nhật thay đổi đã bị suy tính cân nhắc của chánh sách Tokugawa làm chậm hẳn đi .
Nguồn căn sức mạnh Nhật phô bày vào thời kì cận đại hóa khẩn thiết cuối thế kỷ thứ 19 là nhờ samurai . Giới vỏ sĩ samurai cung cấp cho Nhật một nguồn lao động với cảm nghĩ mạnh mẽ về nhiệm vụ, can đảm tinh thần và vật chất và một kinh nghiệm hoàn hảo làm tròn công vụ trên nhiều lảnh vực. Nhữg đức tính đầy giá trị này được trau dồi qua nhiều thế hệ huấn luyện trên chiến trường cam go ,thế nhưng cũng phát sinh nhờ thấm nhuần luân lý Khổng giáo, theo văn hóa Tàu ,du nhập thích nghi vào phong thổ Nhật trong thế kỷ thứ sáu. Năm 1615, Ieyasu ra một pháp lệnh cho các nhà Quân sự là samurai phải vừa học sử dụng võ khí, vừa học lễ phép, tao nhã . Học " lễ phép " ở đây có nghĩa là học Khổng Giáo . Đáng tiếc là nguyên tắc giáo dục" tiên học lễ, hậu học văn" sau này nguồn gốc có lẽ cũng là Khổng giáo- Nho giáo ở Việt Nam , lại chỉ hiểu theo nghĩa duy nhất dân sự văn chương chữ nghĩa chứ không theo tinh thần võ văn quân sự. Phật giáo trước đó là thừa tố tiến bộ văn hóa ở Nhật, bấy giờ đã xuống dốc. Thần Đạo là một đồng minh của Khổng giáo , chống lại Phật giáo . Thế nhưng Khổng giáo nhiều đức tính bảo thủ và nhấn mạnh đến lòng trung thành , thật là lý tưởng cho mô hình quốc gia của nền cai trị Tokugawa. Đặc biệt là học thuyết Khổng Giáo mới Chu Hsi - Hy? ( 1130- 1200 ), một học thuyết quốc gia chính thống, mỗi ngày thêm cứng nhắc - đã lan rộng ở Trung Quốc. Học thuyết Khổng giáo mới đã được thảo luận ở triều đình hoàng đế Go- Daigo năm 1333, nhưng chỉ mới thịnh hành ở Nhật vào thời Tokugawa.
Những năm shogun thứ năm, Tsunayoshi ( 1680 - 1709 ) cai trị, trùng điệp một thời kỳ văn hóa quan trọng gọi là thời đại Genroku Era ( ( 1688- 1704 ). Liên quan đến văn hóa mới phát triễn đô thị - urban culture và đâm hoa nỡ nhụy một kiểu nghệ thuật và văn chương, các chủ nhân không còn là nhữg nhà quí phái triều đình, nhữg tu viện lớn hay những daimyo mạnh mẽ mà là các nhà buôn, các samurai và các thị dân. Dù rằng giới samurai bị khủing hoảng tài chánh , tổng quát kinh tế thịnh vượng và đa dang.. Các cây thu hoạch để bán như dầu mè , dâu tằm , chàm , mía và thuốc lá thay thế cây lúa gạo . Bông vải - cotton chiếm 25 % sản phẩm 4 tỉnh vào quý thứ nhất thế kỷ thứ 18. Nông trại lớn tổ tiên để lại, chia xé thành những đơn vị nhỏ có thể do một gia đình canh tác mà thành phần, nay thiếu nhân công, đã có thể tăng thêm lợi tức làm việc trong làng và ở các công nghệ tỉnh thành. Những doanh vụ nhỏ bùng lên thành những xí nghiệp buôn bán lớn. Nhà Mitsui , chẳng hạn , khởi sự bằng nấu rượu sakê ở Ise mở một tiệm cầm đồ và mua bán lúa gạo . Một thành viên gia đình Mitsui ,thiết lập một tiệm tồn trữ đồ tơ sợi ở Edo năm 1673 , thành công đến nổi ông mở thêm nhiều chi nhánh ở Kyoto và Osaka. Rồi Mitsui lập doanh vụ ngân hàng theo chỉ thị cả hai shogun và hoàng đế. Hảng Mitsui thích nghi thay đổi thành công hơn nhiều hảng buôn khác thiết lập thời Minh Trị Thiên Hoàng và tiếp tục tiến triễn thành một trong số các đại công ty Nhật thờì cận đại. Ba thành phố lớn tăng nhanh là Kyoto kinh đô cũ và Edo kinh đô mới . 4 thị trấn họp nhau lại thành thành phố Osaka , mệnh danh là " Phòng bếp của thế giới " vì có Hối đoái Lúa gạo Dojima - Dojima Rice Exchange thiết lập ở Osaka năm 1679, trở thành hối đoái giấy hẹn trả tiền - notes các kho trữ hàng năm 1710, thay vì ngũ cốc và giao dịch hợp đồng hàng sẽ giao - futures. Rất nhiều thành phố cở lớn mọc lên như Nagoya, Sendai, Kumamoto, Kagoshima, Kanazawa, Hiroshima, Hakone và Kofu cũng như trên 100 thị trấn cở nhỏ hơn.
Trên phương diện nghệ thuật, kịch Kabuki phổ thông thời ban đầu tiếng tăm xấu xa . Thành quả là bakufu cấm đàn bà liên quan đến kịch làm đào nương. Thách thức đàn ông đóng vai đàn bà giúp kabuki trở thành một nghệ thuật bi kịch rất điệu hóa . Nghệ sĩ Chikamatsu Monzaemon ( ( 1653 -17 24 ) là một tài danh nổi tiếng nhất Thời đại Genroku , viết vừa kịch múa rối Buraku , vừa bi kịch Kabuki. Tác phẩm kabuki được biết nhiều nhất của Chikamatsu là Chushingura ,chuyện kể của 47 ronin. Lảnh chúa của họ bị châm chọc cố tình của một daimyo khác , nên rút kiếm định đâm chết daimyo này ở trong vòng triều đình shogun. Vì hình tội, lảnh chúa bị kết án tử hình. 47 ronin trung thành thề thốt báo thù. Để tránh nghi ngờ họ phân tán đi nhiều nơi, chờ đợi cơ hội. Họ hẹn cùng gặp nhau ở một nơi , rồi tụ họp sau khi đi bộ một đêm tuyết rơi, bắt chụp giết kẻ thù bất ngờ không phòng vệ. Rồi họ đến nhà chức trách thú tội. Đáng lý họ phải bị xử tử, nhưng xét vì họ tín nghĩa giri - nhiệm vụ và bổn phận, họ được phép tự sát, một trừng phạt nhẹ hơn cho cái chết danh dự .
Nhà thơ Matsuo Basho ( 1644 -94 ) chắc chắn là thi sĩ được nói đến nhiều nhất ở Nhật đương thời. Đặc biệt những bài thơ ngắn tên là haiku có nhiều người bắt chước nhưng không ai bằng được ông. Thơ trữ tình truyền thống tanka ,phát sinh từ thế kỷ thứ 17, đã khá ngắn, chỉ có 31 chữ. Nhưng haiku rút ngắn thêm, chỉ còn 17 chữ. Haiku còn phổ thông mãi đến ngày nay ở Nhật và nay cũng đượcc ưa chuộng ở Tây phương nữa.
Giàu có tăng gia ở giới buôn bán và sở thích lạc thú của họ, trong đó có sự tham dự của giới samurai , nổi danh tại các khu xóm Edo và Osaka, không bị chút nào giới hạn có bồ bịch và quan hệ tình dục, được phản ảnh thật rỏ ràng trên nghệ thuật bấy giờ, cách in trên gỗ - woodblock prints. Nhưng tấm in này được các thuyền trưởng và con buôn đem về thế giới Tây Phương, biến thành nhưng món đồ sưu tầm , thu thập ỏ Châu Âu và Châu Mỹ. Chúng có ảnh hưởng đáng kể trên công trình họa sĩ Toulouse - Lautrec và các nghệ sĩ khác thời ông. Dù được phổ thông ở Nhật các bản in này bị khinh khi là có đề tài thấp hèn và thô bỉ của các người Nhật thành thạo họa kiểu Trung Hoa. Màu sắc lòe loẹt, nét dòng trôi chảy, tiêu chuẩn thầm mỹ cao, sức lôi cuốn con người thiên nhiên trên các đề tài, , mọi sự phối hợp thành thời đại lớn cho ngành in màu Nhật ở cuối thế kỷ thứ 18 và đầu thế kỷ thứ 19, làm ra một thể chất nghệ thuật phổ thông, hầu như không ai sánh nổi trên thế giới. Cách in trên gỗ này thật sự đã xuất hiện ở Tàu , nhiều thế kỷ trước., nhưng các bức họa viễn cảnh có viết chữ của Tàu thường là đen trắng. Bức họa Nhật trên gỗ , ưu việt dùng màu sắc , ấn tượng tế nhị nhờ cách pha trộn màu, độ màu thay đổi đậm lợt và chùi đi màu đã sử dụng .
Ở Việt Nam sau thời kỳ nghệ thuật Lê sơ thế kỷ thứ 15 để lộ thẩm mỹ thích cao phong , uy nghi của vương quyền, hình dáng những con rồng xa hoa, các thế kỷ thứ 16 , và 17 làm nổi bật nhưng nét nghệ thuật dân dã , biểu hiện độc đáo cho tâm hồn Việt Nam là những mảng chạm gỗ khắp các đình làng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ .Nghiêm trang , học thức thẩm mỹ cỗ điển đã nhường chỗ cho niềm vui của sự sống . Những hình tượng tôn giáo lý tưởng xa xăm nhường bước cho cảnh đi cày, bế con , bổ củi, chọi gà , đánh vật bơi thuyền, tình ái, say rượu …
Văn học từ thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ thứ 15, sau những chiến công chống ngoại xâm của Ngô Quyền, Lê Đại Hành, Lý Thường Kiệt… là bước đầu xây dựng nền văn hóa độc lập mang bản sắc dân tộc, hòa hài hai dòng văn học dân gian và bác học vun đắp cho nhau . Ngoài việc nhà nước phong thần và dựng đền : Tản Viên, Thánh Dóng, Bà Trưng , Bà Triệu …, các trí thức sưu tầm các truyện thần thoại , truyền thuyết dân gian: Việt điện u linh ( thế kỷ thứ 14 ) , Lĩnh Nam chích quái ( thế kỷ 15 ), Đại Việt sử lược ( thé kỷ 14 ), Đại Việt sử ký toàn thư ( thế kỷ 15 ) … Phát huy truyền thống ấy, những sáng tác mới của dân gian và trí thức đều nêu cao chí khí giết giặc, ý thức làm chủ giang sơn và tinh thần nhân nghĩa. Thơ văn của nhiều thiền sư, nhiều tướng sĩ đời Lý , đời Trần ra đời cùng một lúc với những truyền thuyết về các anh hùng cứu nước, về tài trí các ông Trạng Việt Nam ứng đáp sứ Tàu, về phép thần thông của nhiều nhà sư yêu nước v.v… Đặc biệt vào triều Lê Thánh Tông , phát triễn phong phú văn học Việt Nam thế kỷ thứ 15, lịch sử còn ghi hơn 80 tác giả với nhiều thi, văn tập chữ Hán, chữ Nôm. Sự kiện quan trọng của giai đoạn này là sự ra đời của chữ Nôm và và văn học Nôm. Đáng buồn là vào năm 1406 , giặc Minh xua 80 vạn quân xâm lăng nước ta, rồi chủ trương hủy diệt triệt đễ mọi giá trị văn hóa Việt Nam, làm mất đi nhiều sáng tác Nôm đời Lý, đời Trần. Nay chỉ còn lại một số tập thơ Nôm, nhiều bài có giá trị của Nguyễn Trãi ( Quốc Âm thi tập ), Lê Thánh Tông và hội Tao Đàn ( Hồng Đức quốc âm thi tập ). Hai thế kỷ thứ 16 và 17, dưới các triều đại cuối Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn nội chiến liên miên, nhưng văn học dân gian phát triễn rất mạnh trên mọi thể với tinh thần phản phong kiến quyết liệt : tục ngữ , ca dao, vè , ngụ ngôn , truyện tiếu lâm, cỗ tích, truyện nôm , chèo, tuồng đầy tinh thần nổi loạn. Nhiều quí tộc thất thế và nho sĩ bình dân "đau lòng trước những điều trông thấy" , đã đem tài hoa tổng kết tư tưởng và kinh nghiệm nghệ thuật nhân dân , tạo ra một loạt kiệt tác chứa chan tinh thần nhân đạo chủ nghĩa, giúp đẩy mạnh lịch sử văn học dân tộc lên đỉnh cao rực rỡ, vào thế kỷ 18 và 19.
Sở Cuồng ( tạp chí Nam Phong số 54 , tháng 12 / 1921 ) sưu tập được với Nhật Bản Sử Liệu, một số văn thư của các chúa Nguyễn, vua Lê, chúa Trịnh trao đổi với các giới công tư Nhật bổn. Năm 1585, chúa Tiên Nguyễn Hoàng gửi một bức thư cho Đức Xuyên Gia Khương nói về 5 chiếc thuyền Bạch Tần Hiển Quí, một thương gia Nhật ( chứ không phải là giặc Tây dương như Thực lực Tiền biên ghi chép ) đi thuyền đến buôn bán. Năm 1619, chúa Sải Nguyễn Phước Nguyên gả con gái ( không biết tên ) trong số 4 con gái( ba công nữ khác là Ngọc Liên, Ngọc Vạn và Ngọc Khoa ), cho Hoang Mộc Tông Thái Lang. một thuyền chủ trong số 9 chiếc,vượt biển từ Kinh Giới ( Kyoto ? ), Trường Kỳ ( Nagasaki ) qua lại Quảng Nam ( Xứ Đàng Trong ), lại cho người Nhật này lấy họ Nguyễn là Nguyễn Đại Lương , để giữ vững tinh thần thân thuộc với Nhật bổn. Sau công nữ theo chồng về Trường Kỳ, rồi gặp lúc Nhật nghiêm cấm ( thời kỳ shôgun thứ ba Iemitsu 1637 - 1638 ) thuyền Nhật xuất dương, nên phải ở luôn lại Trường Kỳ. Vì sợ người ngoại quốc giả làm thương nhân để do thám, chúa Trịnh tập trung thương khách Trung Quốc và Âu Châu ở Hiến Nam ( Phố Hiến ), cấm họ ra vào Thăng Long. Chúa Nguyễn ở Nam Hà cũng áp dụng một chính sách ngăn ngừa tương tự , lập thương cảng Hội An, người Âu Châu gọi là Faifo( Phải Phố không ? ), xa thủ phủ Phú Xuân. Hội An là một thành phố rộng rải, nhận rỏ ra hai khu phố: một do người Tàu ở, một thì người Nhật ở, có khu trưởng và y theo phong tục, tập quán riêng. Người Nhật thường đem lại 4. 5 vạn nén bạc ; người Tàu đi một thứ thuyền buồm đem lại tơ lụa tốt và sản phẩm đặc biệt Trung Quốc. Người Nhật, ngoài việc bán mua cho họ còn gián tiếp mua hàng Trung Quốc cho Nhật nữa. Vì nhà Minh từ năm 1371 đã có lệnh bế môn, cấm dân duyên hải xuất ngoại. Năm 1567, bỏ lệnh cấm này, nhưng vẫn cấm vượt biển và xuất cảng sang Nhật các phẩm vật có tính cách quân sự và kinh tế.
Thời kỳ Phần II Mạc Phủ, Shogun Tokugawa, thổi lại làn gió đổi thay ở Nhật
Một đêm khuya năm 1719 , Shogun thứ 8 Yoshimune thức dậy thảo luận sôi nổi cùng Nishikawa Joken, một thông ngôn cho các thương gia Hà Lan ở Nagasaki. Ông muốn Nishikawa giải thích quả địa cầu Nishikawa xây dựng và muốn biết chi tiết các kỳ diệu trên trời một viễn vọng kính Hà Lan tiết lộ . Cũng như mọi nhà cai trị Tàu và Nhật có tinh thần trách nhiệm, Yoshimunde đang lao tâm vì những lý do tôn giáo muốn lịch Nhật càng chính xác càng tốt. Hầu gieo và gặt lúa đúng ngày tháng và hài hòa giữa Trời và Đất được duy trì. Công trình Shogun hỏi đã được Cha Cơ Đốc Adam Schall biên soạn cho triều đình Tàu ở Bắc Kinh, một thế kỷ trước. Thành quả của những lưu tâm này là Yoshimune bải bổ việc cấm nhập khẩu các sách vỡ ngoại quốc với điều kiện các sách vỡ không dạy Thiên Chúa Giáo. Phong trào thu nhập kiến thức Tây Phương hay " Hà Lan " mệnh danh là rangaku ( ran là chữ viết giữa của từ Ho-ran-da hay Hà Lan và gaku có nghĩa là nghiên cứu hay một ngành học hỏi ), đã hiện diện lén lút nay mở rộng toang và tiến bộ lớn lao .
Dân Nhật đã học và cải tiến từ dân Bồ Đào Nha cách làm súng đạn, đại bác , bản đồ, nghề hàng hải, các vấn đề hải quân tổng quát và có lẽ quan trọng hơn hết là sự hiện điện và tính chất thế giới Âu Châu. Nhưng Tây phương đã tiến mạnh mẽ hơn nhiều giữa lúc dân Bồ Đào Nha đến Nhật cuối thế kỷ thứ 16 và thời đại shogun Yoshimune ( 1716- 45 ), đầu thế kỷ thứ 18. Giữa thời kỳ này là thành công của Galileo , những thảo luận rung trời lỡ đất của hội Hoàng Gia - Royal Society ( thành lập năm1662), và viện Hàn Lâm Khoa học ( thành lập năm 1666) , những thí nghiệm hóa học của Robert Boyle , và công trình lý thuyết vững chắc của Sir Isaac Newton. Một khi cái nhìn toàn cầu về vật lý học đã thực hiện thì áp dụng qua các ngành khoa học xã hội cũng được chu toàn. Sau Thời đại Ánh Sáng - Enlightenment Age, Thế giới hoàn toàn đổi thay , không còn như trước hay trở lại nữa.
Trước đó, các học giả Nhât học kỷ thuật Tây Phương bị cầm tù hay bị giết chết . Các lợi dụng ưu điểm tự do mới Yoshimune cho phép rất thực tiễn. Trước tiên họ không bị lý thuyết hấp dẫn . Họ học qua ngôn ngữ Hà Lan những đề tài thực tiễn như thực vật học - botany , y khoa, môn chế tạo pháo kích, rèn luyện quân lính kiểu Tây Phương và chiến thuật; nhưng cũng gồm thêm vài đề tài lý thuyết tỉ như toán học và thiên văn. Năm 1771 , các bác sĩ tiền phong Nhật đã mỗ xẽ một phạm tội hình, chỉ chiếu theo sách vỡ . Một học giả khác Aoki Konyo , giúp Yoshimune ước mong tăng gia cung cấp lương thực , đưa vào Nhật Khoai lang - sweet potato và được mệnh danh là Tiến sĩ- Doctor Khoai Lang. Hiraga Gennai ( 1728- 79 ) góp phần du nhập , cải tiến nhiều lảnh vực từ thực vật học đến quặng sắt , điện và các sơn dầu kiểu Tây Phương. Gần đến thế kỷ thứ 18 các sách thiên văn học , y khoa , thực vật học và toán học được xem là tiêu chuẩn ở Âu Châu, thảy đều được dịch ra và xuất bản ở Nhật . Năm 1811 một sở dịch thuật chánh thức được chánh phủ Nhật thiết lập, được biết sau đó dưới tên là Viện Kiểm tra Sách Dân Dã Man- Institute for the Investigation of Barbarian Books. Nhật phản ứng còn mau lẹ và toàn diện về kiến thức Tây phương đưa tới còn hơn cả Tàu, dù rằng Tàu có một lợi điểm khó sánh ngang hàng, nhờ hiện diện các giáo sĩ Dòng Tên - Jesuits, đa số là các nhà khoa học hay chuyên viên kỷ thuật. Nhật đã đuổi các giáo sĩ Dòng Tên vì những lý do chánh trị, nhưng lại sử dụng mọi nguồn thông tin khác dù thiếu sót đi nữa .
Tiếp theo Yoshimune, hiệu quả của bakufu suy đồi. Cả hai shogun thứ 9 và shogun thứ 10 đều không đủ sức đối phó tình thế. Thời Ienari, shogun thứ 10, Matsudari Sadanobu, một hội đồng huynh trưởng có trách nhiệm đặt ra một chánh sách tục danh là Cải Cách Kansei Reforms . Sadanobu cắt bớt ngoại thương, làm ra các luật chặc chẽ hạn chế chi tiêu xa xĩ vì quyền lợi quốc gia, cả đến việc cấm dùng thợ cạo và thợ may mặc. Ông xếp đặt bỏ các nợ nần dân nghèo trong giới chiến sĩ và phục hồi nhấn mạnh nông nghiệp là nền tảng quốc gia. Thoạt tiên các biện pháp của ông hủu hiệu, đem lại lòng tin cho chánh phủ. Tuy nhiên trong dài hạn , trên phương diện kinh tế , cải cách trở nên lố bịch- ngốc nghếch, vì căn bản dựa trên lý thuyết Khổng gíáo cỗ truyền, chứ không trên các thành quả kinh nghiệm kinh tế .
Tiếp theo Cải Cách Kansei là 10 năm đói kém nặng nề. Sau đó khó khăn tài chánh khiến chánh phủ phải tăng đánh thuế giới nông dân. Ba trận đói nặng nhất vào các năm 1732, 1783 và 1832 , gây ra đau khổ dữ dội và lâu dài . Trận đói khởi đầu năm 1783, kéo dài 5 năm, theo nhiều báo cáo đã cho thấy nạn ăn thịt người và hàng ngàn ngươi chết đói ở miền Bắc. Những năm được mùa, nhiều nông trại chủ đất và các nông trại nhỏ sung túc. Trái lại, nhân công ngành nông gặp nhiều khó khăn. Bakufu tuyên bố xem giới nông dân như là nền tảng quốc gia, nhưng họ đối đải nông dân rất tàn nhẫn. Lý thuyết là chỉ cho nông dân vừa đủ để sinh sống và đủ hột giống gieo mùa xuân năm tới và lấy mọi sản xuất còn lại dưới hình thức thuế khóa. Pháp lệnh dạy đời năm 1649, cấm nông dân hái lá cây làm nhiên liệu hay dọn làm món ăn lúc đói kém; cấm nông dân uống trà hay sakê , cấm vợ nông dân đi du ngoạn hay đi bộ trên đồi, và phải ky dị nếu vợ lơ là trách nhiệm trong nhà. Năm 1652, một chủ làng kêu nài đòi giảm thuế cho làng. Giảm thuế được chấp thuận, nhưng chủ làng bị xử tử, vì đã bạo gan xin giảm thuế. Cho nên không lạ lùng gì thấy nông dân nổi loạn xảy ra thường xuyên, và đi cướp phá thành phố, thị trấn. Ngoài ra còn có nhiều yếu tố hội tụ khác xói mòn tận chân tinh thần đoàn kết dân tộc chế độ Tokugawa xây đắp cẩn thận: sự hiện diện một số ronin - samurai vô chủ thất nghiệp và tụ hợp ở thành phố, giới buôn bán bừng dậy, nhưng không được hệ thống phong kiến Nhật chấp thuận, việc du nhập kiến thức và kỷ thuật Tây Phương có tính chất làm đổ vở lề lối sinh hoạt Nhật truyền thống, nông dân nổi loạn công khai. Đã phải đối đầu với nội tình nghiêm trọng, bakufu lại phải đối đầu thêm một đe dọa từ bên ngoài khi Thiếu Tướng ( Tá ? ) Hải Quân Hòa kỳ - Commodore Matthew C. Perry đến Nhật.
Sứ mệnh Perry đôi khi được xem là lý do duy nhất cho việc thay đổi thái độ Nhật từ ẩn náu qua tham gia thế giới cận đại; một giải thích thiển cận về thay đổi nội tình Nhật. Perry cũng không phải là kẻ gỏ cửa Nhật đầu tiên, tuy rằng ông là kẻ đi vào đầu tiên. Các nhà địa lý Nga đã biết Nhật từ cuối thế kỷ thứ 17, và năm 1702 , Đại đế Peter the Great ( tiếng Pháp là Pierre le Grand ) đã phỏng vấn một thủy tủ tàu Nhật chìm đắm . Dù Nhật cấm, nhiều giao thương bí mật đã xảy ra ở thế kỷ thứ 18 giữa dân Nhật và dân Nga mà Nhật gọi là " Dân Đỏ Đảo Bắc - Red Northern Islanders " ( từ các đảo Kurile ). Thành công của Thiếu Tá Perry sử dụng điều đình với sức mạnh , bắt buộc Nhật phải mở cửa, được lịch sử Tây Phương đề cao vì đó là một vài cơ hội hiếm hoi thời bấy giờ Hoa Kỳ thay vì các lực lượng Âu Châu hành động thật năng nổ, hung hăng. Perry mong muốn trao bức thư Tổng thống Fillmore cho " Hoàng đế " mà Perry tưỏng là nhà cai trị thực sự , không biết đúng ra phải là shogun. Sau khi trao bức thư, khéo léo nễ mặt dân Đông Phương, Perry nói là dành một năm cho chức quyền Nhật xét đoán và sẽ trở lại với một lực lượng hùng hậu hơn. Chánh quyền Shogun tiến thoái lưỡng nan. Lòng Ái quốc , niềm kiêu hảnh quốc gia và chánh sách cô lập, tất cả nhắm về chối bỏ mạnh mẽ các đòi hỏi của Hoa Kỳ. Nhưng các cố vấn cho Shogun biết rỏ là Mỹ súng ống mạnh hơn . Vấn đề là Mỹ có sử dụng súng ống hay không, và mọi chỉ dẫn đều cho thấy Mỹ muốn dùng vỏ lực ủng hộ đòi hỏi, như dân Anh đã làm ở Trung Quốc. Ở tình trạng lưỡng nan này Shogun lần đầu tiên thỉnh ý triều đình hoàng đế Nhật và tất cả mọi lảnh chúa địa phương- daimyo khắp nước . Nhưng Abe Masashiro, cố vấn chánh cho shogun cảm nhận là thật cần thiết cho quyền lợi quốc gia, thỏa thuận càng nhiều càng tốt trong chính sách điều đình với các ngoại quốc hung hăng. Đa số daimyo trả lời cho shogun đều muốn chống cự , dù có vài daimyo đã tiếp xúc với Tây phương muốn trì hoãn. Triều đình hoàng đế hoàn toàn chống đối mọi nhân nhượng. Abe quyết định cần thiết phải điều đình , sau khi ước lượng lực luợng và ý chí Mỹ - Hoa Kỳ . Khi Perry trở lại Nhật năm 1854 như ông đã hứa, các chức quyền shogun sử dụng chiến thuật trì hõan, nhưng cuối cùng chịu nhượng mọi đòi hỏi chánh yếu của Mỹ. Hòa Ước Kanagawa mở hai hải cảng nhỏ là Shimoda hẻo lánh và Hakodate ở đảo Hokkaido xa xăm. Thực thi hòa ước mới dài dòng và khó khăn. May là Mỹ đã phái đến một sứ thần mềm dẻo là Townsend Harris . Harris dùng biện cứ là sẽ trả tiền cho Nhật một khi có thỏa thuận giao thương, thay vì đưa cao tham vọng đế quốc của Anh và các nước Âu Châu khác, như đã thấy ở Trung Quốc. Tháng 7 năm 1858 , một thỏa ước thương mãi được ký kết giữa Nhật và Hoa Kỳ, mở thêm nhiều hải cảng mới, các khu vực đặc quyền ngoại giao - extraterritorially và cư trú ngoại quốc ở Edo và Osaka, một thỏa hiệp quan thuế và nhũng điều khoản Hoa Kỳ cung cấp cho Nhật tàu, vỏ khí và chuyên viên kỷ thuật. Những thỏa ước tương tự sau đó ký kết với 5 nước Âu Châu: Nga, Anh, Pháp và Hà Lan.
Hòa Ước Harris gây ra nhiều tranh luận lớn ở cả hai triều đình shogun và hoàng đế . Khó khăn cho chánh quyền Shogun càng tăng thêm, khi các lực lượng ngoại quốc đòi bồi thường những vi phạm hòa bình, uy quyền shogun suy thoái không có sức ngăn ngừa. Tấn công ngườì ngoại quốc và dân Nhật thân ngoại quốc, không những do các samurai cách ly còn cả daimyo nữa. Đặc biệt là hai thị tộc Choshu và Satsuma, đẩy mau sự sụp đổ chế độ Tokugawa. Năm 1866, shogun thứ 13 chết và Keiki lên thay. Ngày 3 tháng giêng 1868 , Satsuma và Chosun được hai dinh trang bà con là Echizen và Nagoya cùng hai dinh trang xa xôi là Tosa và Hiroshima, giúp sức chiếm dinh thự thành quách shogun. Tuy ít quân hơn, nhưng khí giới tốt hơn, họ đánh bại lực lượng của Keiki ở các thôn xóm Fushimi và Toba , phía Nam Kyoto , ngày 17 tháng giêng 1868.
Con Dân Nước Việt là những người đặt Tổ Quốc lên bản vị tối cao, tối cao có nghĩa là trên tất cả mọi vật, kể cả tôn giáo, đảng phái, và cả chính bản thân mình.
No comments:
Post a Comment