*** QUYỀN LỢI TỔ QUỐC & DÂN TỘC LÀ TRÊN HẾT *** KHAI DÂN TRÍ, CHẤN DÂN KHÍ, HẬU DÂN SINH ***

2011/03/16

Lịch sử văn hóa văn minh Nhật (phần III)

Lịch sử văn hóa văn minh Nhật
(phần III)
GS Tôn Thất Trình
6-      Thời kỳ Kamakura ( 1185- 1336 )  hay thời kỳ chánh phủ quân sự Shogun
     
 Sau khi thắng trận  Dan-no- ura năm  1185 , Minamoto Yorimoto hiển nhiên làm chủ nước Nhật. Ông đạt địa vị này  sau một kế họach lâu dài  và suy nghĩ cặn kẻ, luôn luôn cũng cố địa vị ông trên phương diện chánh trị , nhưng lại trao quyền hành quân cho người khác , tỉ như cho Yoshitsune, có  tài hành quân hơn ông .  Tuy nhiên địa vị của ông vẫn còn  ảo hơn là thực. Ông cố tâm làm cho mình không còn bị tấn công được nữa bằng các biện pháp hành chánh họa kiểu can đảm và đơn giản,  kềm theo vài vụ ám sát thận trọng.  Uy quyền của Yorimoto căn  cứ trên giới chiến sĩ mới . Ông đắn đo thiết lập  và duy trì  trật tự ưu đải này . Cương vị vỏ sĩ samurai được định nghĩa và điều hòa, và không một ai có thể khẳng định  địa vị - thân thế này,  nếu không  có phép của Yorimoto. Samurai thường là chiến sĩ cỡi ngựa mặc áo giáp khắp người  và có cờ  mang theo  huy hiệu mình. Lẽ dĩ nhiên là có nhiều loại chiến sĩ - chinh phu khác , không có thân thế samurai, đi bộ chiến đấu và mặc áo giáp mỏng. Một giới nhỏ hơn và được ưu đải hơn là go- kenin hay "gia tộc đánh kính trọng".  Phải là  thân thế samurai trước rồi mới được  gia nhập go- kenin, nhưng thật ra  hai loại nguồn gốc khác nhau: samurai xuất thân từ hàng ngũ quân sự , còn go-kenin là  liên hệ thái ấp, phong kiến .

            Ba bộ phận trung ương chánh quyền Kamakura là  Samurai -dokoro ,  Mandokoro  và  Monchujo. Samurai - dokoro ( " phòng Dịch vụ hay phòng  Trật tự ") ,  thường được dịch là Ban  Tùy Tùng-  Người Hầu ( Board of Retainers ) . Ban này  lo mọi việc làm nhiệm vụ quân sự, thưởng phạt các chiến sĩ; nhưng sau đó  nới rộng quyền uy đến những lĩnh vực lớn rộng hơn, lưu tâm đến đời sống riêng tư  của binh sĩ, hôn nhân của họ , bạn bè, tiêu khiển, tóm lại những gì liên quan đến  lòng trung thành tối hậu đến cấp trên.Thời chiến tranh, Samurai-dokoro đảm trách chức vụ của Bộ Tổng Tham Mưu. Mandokoro hay Hội đồng - Council, cấp cao nhất làm chánh sách cho nền cai trị của Yoritomo.  Đứng đầu Mandokoro là một giám đốc hay Shikken. Sau năm 1203,  Hojo Tokimasa  giữ chức vụ này  và trở thành cha truyền con nối cho dòng họ ông. Bộ phận thứ ba là Monchujo  hay Ủy Ban Điều tra - Board of Inquiry .  Bộ phận tòa án này là  tòa án kháng cáo cuối cùng , quản trị  luật nhà Minamoto.  Thoạt tiên giới hạn  vào gia tộc Minamoto  và các  tùy tùng, nhưng vì luật này là luật duy nhất của đất nước Nhật đương thời, giải quyết mọi tranh tụng khắp xứ , ngay cả các nhà quí phái  từ kinh đô, cũng khởi sự đến Kamakura xin xét xử . Năm 1190,  Yoritomo  được phong chức tước danh dự cao nhất là Nairan . Nhưng chức vụ ông khao khát  là Shogun - Mạc Phủ hay Thống chế chỉ huy Quân sự ( Tướng Quân ) Suprême Military Commander, chỉ huy  mọi lực lượng quân đội  dưới danh nghĩa của hoàng đế Nhật.  Nhưng Go- Shirakawa  không muốn phong chức này cho ông . Mãi đến năm 1192 Go- Shirakawa chết, hoàng đế vừa ẩn dật Go- Toba  mới phong cho Yorimoto chức Shogun.

            Thật ra chức Mạc Phủ ,Tướng Quân-  Shogun đã có từ  thời chiến tranh xâm chiếm chống tộc dân Ainu. Hoàng đế Nhật  phong chức vị này cho một tướng đặc biệt , giới hạn trong một thời gian thôi. Tuy nhiên, Yoritomo lại xem chức vị này  là quyền  cho ông và các tử tôn ông  vĩnh viễn  để cai trị  Nhật, dưới danh nghĩa của hoàng đế .  Chánh phủ ông và các  con cháu kế tiếp  được xem là  bakufu - chánh quyền lều chỏng  lính "Tent government" hay chánh quyền quân sự. Sau khi Yoritomo chết năm  1199,  uy quyền  Shogun -Mạc Phủ không  còn nằm lâu dài trong tay  gia đình ông  nữa,  mà lọt vào tay gia đình Hojo,  trước tiên là  Tokimasa,  cha vợ Yoritomo, rồi đến  con Tokimasa là  Yoshitoki , và cháu là Yasutoki. Các ông họ Hojo này không thật sự là shogun , nhưng họ thật sự nắm quyền hành, nhờ giữ chức  shikken- giám đốc Hội Đồng Mandokoro,  Hojo Tokimasa dành được năm  1203.  Lúc  này,  chức vụ Shogun   trở thành hư vị, thường do một hoàng tử  máu mũ hoàng đế nắm giữ.  Thế nhưng  dòng họ Hojo đã  trung thành cũng cố địa vị,  dù họ khởi sự bằng bạo lực và  đã cống hiến cho Nhật bổn  gần một trăm năm tương đối yên tĩnh. Một điều dị thường lạ lùng  trổi dậy ở  chánh phủ Nhật  là một hệ thống cai trị gián tiếp  phức tạp  không tìm thấy ở bất cứ nơi nào trên thế giới .  Ở Kyoto, hoàng đế  trên danh nghĩa,  nhường quyền cho một nhiếp chánh  Fujiwara. Nhiếp chánh này lại nhường quyền  cho một  hoàng đế đi tu hay ẩn dật . Nhưng hoàng đế lại không  thực sự nắm quyền  mà trao lại trước hết  cho một shogun quân sự mạnh mẽ; rồi thì lại do một nhiếp chánh  dòng họ Hojo ở Kamakura  thực sự cầm quyền dưới danh nghĩa của Shogun .

           Suốt thế thứ 13 còn lại , các nhiếp chánh Hojo  duy trì được hòa bình nội địa. Chính họ  cũng nêu gương  sống thanh đạm , căn cơ và  thi hành trung thành  chức vụ .  Thế nhưng vào quý thư tư thế kỷ này , một đe dọa lớn xảy ra ở nước ngoài. Triều Tiên không đủ mạnh   và Trung Quốc cũng không  đủ tham vọng tấn công Nhật bổn. Nhưng dân Mông Cỗ là một  điều khác hẳn , vì nhiệt tâm không nguôi Mông Cỗ chinh  phục thật là không bờ bến.  Triều Nguyên- Yuan hay Mông Cỗ  chiếm lĩnh  toàn thể Trung Quốc năm  1280, Sau khi đánh bại nhà Nam Tống -  Southern Sung  và  nhà Nguyên  theo lịch sữ Tàu trị vì ở Trung Quốc  từ năm  1280 đến năm  1368 . Thật sự  Mông Cỗ  đã chiếm miền Bắc nước Tàu khoảng năm 1230 .  Hốt Tất Liệt - Khubilai, Đại Hãn Mông Cỗ   đã thiết lập kinh  đô ở Bắc Kinh ( Bắc Bình ngày nay ) năm 1264.  Triều Tiên không chống nổi và bị  Mông Cỗ chiếm đóng. Năm 1268,  Hốt tất Liệt  gửi  một sứ giả sang Nhật đòi Nhật phải thần phục. Triều đình Nhật muốn điều đình , nhưng  Hojo Tokimune  và hội đồng Quốc gia quyến định chống cự và  gửi trả phái đoàn sứ giả về Tàu , không trả lời và không biết đến. Tướng già kinh nghiệm 60 tuổi Hojo Masamura được cử đảm trách công cuộc phòng thủ. . Một sứ giả Mông Cỗ khác  bị đuổi cổ khỏi Nhật năm 1272: đúng là một tuyên chiến.  Mông Cỗ tấn công năm 1274  dùng một lực lượng gồm  25000 quân Mông và  quân Triều Tiên, đổ bộ ở Vịnh  Hakata , phía Bắc Kyushu. Quân Mông  là một kẻ thù đáng kinh sợ  và có ưu điểm là quân thành thạo  về cách sử dụng  kỵ binh đông đảo cùng  máy phóng - catapults  phóng " bom" lữa.  Nhưng quân Mông không có đủ chỗ để  hành quân . Quân Nhật một lòng dạ nhiệt tình  bảo vệ xứ sở ,sử dụng kiếm - cung hửu hiệu đến nổi bẻ gãy được cuộc tấn công của quân Mông ít nhất là một phần nào  trận đánh nhau lần thứ nhất .Đêm đến,  quân Nhật rút lui vài dặm Anh sâu vào nội địa  và núp sau các lũy đê  đã dựng lên làm công sự phòng thủ trước đó.  Giông tố đang nổi lên  và các hướng dẫn viên Triều Tiên khuyến cáo là nên lên thuyền bỏ về,  nếu không các  thuyền binh sẽ bị nằm dưới gió.  Vì một lý do nào đó, các chỉ huy Mông  lo sợ Nhật tấn công trong cơn mưa gió , dù rằng quân Nhật  thật tình đã mõi mệt không còn sức tấn công nữa.  May mắn cho quân Nhật là quân Mông quyết  định  rút lui chỉ sau một ngày  đánh nhau. Bảo tố sau đó đã đánh đắm  nhiều thuyền binh Mông và  nhiều binh sĩ  chết chìm .  
      
             Năm 1281, Mông Cỗ  lại tấn công Nhật lần thứ hai, quyết định hơn  lần trước,   tập trung 140 000 binh lính , trong số này có khoảng 100 000  người từ các tỉnh miền Nam Trung Quốc, Mông Cỗ vừa mới chinh phục xong.  Quân Hoa Nam này không có lòng dạ  đánh nhau dưới danh nghĩa của Mông Cỗ.  Quân xâm lăng  đổ bộ nhiều lần dọc bờ biển  Kyushu , đặc biệt ở Vịnh Hakata.  Nhưng nơi này Nhật đã xây đắp xong lũy tường đá  ngăn cản Mông Cỗ dùng kỵ binh sở trường.  Các chiến sĩ Nhật anh dũng chống cự và chận đứng quân Mông Cỗ  hai tháng và  không cho quân Mông Cỗ nới rộng đầu cầu bờ biển .  Trong khi đó , thuyền chiến Nhật  nhỏ hơn  nhưng dễ dàng điều động hơn đánh thiệt hại nặng các thuyền binh Mông Cỗ   ở vùng vịnh biển eo hẹp .  Hai ngày 15 và 16 tháng 8 năm 1281 , đem đến giải thoát cho Nhật .  Một trận bảo lớn  gió thổi trên 120 dặm Anh, làm hư hại nặng hơn nữa đoàn chiến thuyền Mông Cỗ.   Phần lớn binh lính Mông Cỗ và Hoa Nam  để lại trên bờ  biến thành mồi ngon cho các kiếm Nhật hoan hỉ. Nhật ca tụng bảo tố này là một  câu trả lời cho  cầu nguyện  gọi là  Thần Phong - Wind of the Gods , kamikaze .  Bakufu duy trì  chiến lũy Kyushu hơn 20 năm nữa, nhưng sau cuộc thất bại này , Mông Cỗ không bao giờ trở lại tấn công Nhật bổn .      
        
          Khác với ở Việt Nam,  giặc Mông Cỗ  xâm lăng 3 lần, trong thế kỷ thứ 13  bị đánh bại nảo  nề các năm 1258 , 1285 và 1288. Lần thứ nhất vào tháng giêng 1258 , trước cuộc tấn công vào Nhật 16 năm . Bấy giờ , Hốt Tất Liệt  đang tiến hành  cuộc chiến tranh xâm chiếm Trung Quốc . Bên cạnh những đạo quân ồ ạt đánh vào đất Tống, một đạo quân  khoảng 40 000 người, gồm kỵ binh Mông Cỗ  và binh lính người Tráng - Choang hay Thoán  Vân Nam ( và Quảng Tây ? )  do tướng  Ngột Lương Hợp Thai - Uryangquadai  chỉ huy  từ Vân Nam   đánh xuống Đại Việt. Vua Trần Thái Tông ( Trần Cảnh ) đã đem quân  lên chặn giặc  ở Bình Lệ Nguyên bên sông Cà Lồ . Thế mạnh giặc ban đầu khiến quân ta phải rút lui để bảo toàn lực lượng. Sau đó bỏ luôn Thăng Long lại phía sau , nhưng triều đình và quân dân không nao núng . Giặc đóng ở Thăng Long trong một thành trống , khốn đốn vì thiếu lương thực.  Ngày 29 -1- 1258 , vua Trần Thái Tông  đem binh thuyền ngược sông Hồng, đánh bật quân địch khỏi  kinh thành, giặc phải chạy theo đường cũ về Vân Nam . Cuộc xâm lăng thứ hai xảy ra  cuối năm 1284 , do Thoát Hoan - Togan , con trai Hốt Tất Liệt và A Lý Hải Nha - Ariquaya chỉ huy ,  bị Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn và quan binh nhà Trần  tiêu diệt  ở các trận Tây Kết , Hàm Tử ,  Chương Dương , Vạn Kiếp . Xâm lăng lần thứ ba cuối năm 1287 ,  đoàn thuyền Mông Cỗ chuyễn lương  bị đánh   bại ở  vùng đảo Vân Đồn, đoàn thuyền chiến của Ô Mã Nhi- Omar bị mai phục đánh tan ở sông Bạch Đằng  ngày 9-4 - 1288, tàn quân Thoát Hoan khốn đốn rút chạy ra biên giới bị chận đánh,  đến ngày 19-4 1288  mới  về đến Tư Minh, Trung Quốc .

            Theo quan điểm Mông Cỗ , thất bại ở Nhật không lấy gì làm quan trọng cho lắm.  Các hoàng đế Trung Quốc không bao giờ xem các đảo xa khơi này như là một mối đe dọa hay một giá trị đáng kể , chỉ là một danh dự, một cố gắng hoàn tất chinh phục. Thế nhưng chiến thắng  đối với Nhật bổn là một  giải thoát thần diệu.  Đây là một cố tâm xâm lăng  đất Nhật linh thiêng đầu tiên trong lịch sử Nhật và cũng là lần cuối cùng, mãi cho đến  Thế Chiến thứ Hai.  Cho nên không lạ gì  kinh nghiệm chiến thắng này  đã ấn tượng mạnh mẽ lâu dài  trong trí óc dân Nhật và ký ức kamikaze được  tái xuất  để  gọi tên các  cuộc tấn công tự tử của các phi công Nhật. Theo Nhật, chiến thắng đánh bại quân Mông Cỗ  là một trong những trận chiến tranh quyết định của lịch sử thế giới.

       Khía cạnh  tôn giáo , thoát khỏi ách Mông Cồ  được nhấn mạnh  trong niềm hân hoan  nhà sư Nichiren ( 1222- 1282 )  tuyên bố  là đã tiên tri cuộc ngoại quốc tấn công coi như thể là một trừng phạt các nhà lảnh đạo Nhật và một khải hoàn tương lai Nhật. Học thuyết  của Nichiren là một phối hợp  giữa các đức tin Phật giáo  với chủ nghĩa  quốc gia dân tộc nhiệt thành.  Cá tính bốc lữa của ông  tuồng như cảm hứng cho  các tín đồ  một  thái độ cuồng tín  để đối phó  khủng hoảng đương thời. Ông tóm tắt trong câu  Namumyoho rengekyo - Hoan hô  Luật  Phi thường của Kinh Phật Hoa Sen ( Lotus Sutra ). Ông tỏ ra ít khoan dung  các môn phái khác như các lảnh tụ Phật Giáo lúc đó và chỉ trích chức quyền  đã ủng hộ các  giáo chức giả dối. Ông bị các nhiếp chánh Hojo kết án tử hình,  nhưng thoát khỏi đao phủ khi  một sét đánh  đúng vào đao. Bị đày ra một đảo cô quạnh Biển Nhật, Nichiren đã viết: "chim khóc nhưng không nhỏ nước mắt . Nichiren không khóc, nhưng nước mắt Nichiren không bao giờ khô . "  Nichiren ở Kinh Phật Hoa Sen tự gán mình là một  nhà tiên tri  tương trưng cho lòng yêu mến Phật Giáo  và Nhât Bổn , vì ở tên ông,  nichi - mặt trời  có cả hai nghĩa là  Ánh Sáng của Sự Thật  Và Đất Nuớc Mặt Trời Mọc và ren  là hoa sen.

           Nichiren không phải là giáo chức ( Kinh Phật ) nổi tiếng duy nhất bấy giờ. Chúng ta đã kể ra các môn phái Zen  vào thời kỳ Kamakura. Ảnh hưởng hai nhà sư môn phái Đất Nước Thuần Khiết-  Pure Land là Honen ( 1133 - 1212 ) và Shiran ( 1173- 1262 ) cũng rất lớn.

          Các nhiếp chánh Hojo mất hết quyền uy,  khi vùng Kanto nổi loạn  và lảnh tụ Nitta Yoshida   tiến đánh Kamakura, đánh bại  nhiếp chánh Hojo  cuối cùng một cách bất ngờ  và đốt Kamakura ra tro.  Trong 50 năm,  từ  1136 đến 1392,  có hai dòng muốn tranh nhau ngôi hoàng đế , dòng miền Nam ở một vị trí  ở các núi phía Nam Kyoto,  gọi là Yoshino và dòng Bắc ở Kyoto.  Tướng Ashikaga Takauji thắng trận,  đưa tới thời đại  shogun Ashikaga : phần thứ nhất  đến năm  1392  có tên là Nambokucho - Thời Kỳ Nam Bắc phân tranh ( như Trịnh Nguyễn ở Việt Nam  ? ).

              7 -  Thời kỳ  shogun Ashikaga ( Nambokucho 1336-1392, Muromachi 1392- 1572 ) , Thống Nhất Nhật bổn  1534- 1615. 

           Mạc phủ - Tướng quân Ashikaga khác với Yoritomo  là không bao giờ kiểm soát được toàn thể nước Nhật,  chỉ nắm vững được 8 tỉnh miền Đông   Họ phải luôn luôn mặc cả hổ trợ với các đại điền chủ và các lảnh chúa uy vũ. Thời đại dòng họ Ashikaga như vậy  là một thời đại luôn luôn có chiến tranh  với đồng minh  tan rả và tái lập  và trọng tâm  quốc gia  chuyễn xa khỏi kinh đô đến các điền trang  lớn và  các  dinh trang phong kiến.  Không có  một  triều đình tòa án- công lý  mạnh mẽ, trung ương, phong kiến  giúp Yoritomo  cũng cố cai trị, và quyền lực hoàng đế  yếu kém hẳn đi vì chia rẽ  các triều đình Nam , Bắc . Tình trạng xáo trộn ở thời kỳ này thật rỏ rệt  trên sự kiện là kinh đô  Kyoto thay đổi chủ nhân 4 lần từ năm  1353 đến năm 1355.  Sáp nhập  hai triều đình Nam - Bắc  năm 1392  làm ra thời kỳ phụ Ashikaga Muromachi,  lấy tên một quận kinh đô Kyoto .

            Sau khi hai triều đình sáp nhập, trong nữa  thế kỷ 15 không xảy ra  chinh chiến lớn giữa các lảnh chúa địa phương.  Nhưng không thể nói là đã có hòa bình, vì xảy ra nhiều  bạo động điền địa quan trọng. Nông dân bất mãn  lập ra các hội liên minh tên gọi là ikki để tự bảo vệ.  Ikki biến thành một nổi loạn  do một hội tạo ra, vì đói kém năm 1420 và tiếp theo cũng là đói kém và dịch tể năm 1425. Năm 1428, một đạo quân lớn  nông dân nổi loạn đầu tiên tập trung ở gần kinh đô. Những nổi loạn như thế  sau đó xảy ra thường xuyên và nhiều đám đông đổ xô vào các dinh thự, cư xá  phá phách  các tiệm rượu sakê, cầm đồ  và chùa chiền, tất cả những  ai cho vay nợ , mục đích xé bỏ  chứng cớ nợ nần. Chánh quyền bakufu  cố xóa bỏ nợ nhiều lần nhưng không  có hiệu quả  và quyền uy bakufu  trở thành tối thiểu vào năm  1441. Hai năm sau, chính ngay kinh đô cũng bị  dân nổi loạn tấn công. Cố gắng  bi thảm vô ích cuối cùng là cuộc chiến Onin. Các năm 1467- 77,  shogun thứ tám Yoshimasa bị các vấn đề  chánh phủ không giải quyết nổi tràn ngập và thật ra ông ta muốn hưởng thụ nghệ thuật hơn là cai trị. Ông muốn  rút lui ở tuổi 30  và hai dòng họ  hùng cường Hosokawa và Yamana muốn vào chỗ trống này. Tháng 5 năm  1467, hai bên đánh nhau ngay chính ở thành phố Kyoto. Thành quả của nhiều tháng đánh nhau và lữa cháy thật tai hại cho kinh đô đẹp đẻ và  văn minh Kyoto. Năm  1473, cả hai thủ lãnh  Hosokawa và Yamana đều chết. Ouchi, thủ lảnh mới của Yamana rút lui khỏi Kyoto và đầu hàng Shogun.

            Thời kỳ  phân tán phong kiến  dưới quyền  Ashikaga trùng với thời gian kinh tế Nhật phong kiến phát triễn mạnh . Thời phong kiến thứ nhất dưới quyền  Yoritomo thời kỳ  Kamakura,  rồi đến  thời các nhà nhiếp chánh Hojo  đã thấy  chuyễn động hàng hóa và dân gian  nhiều hơn hẳn thời Nara ban sơ vào thế kỷ thứ 8 và  và bắt đầu Heinan  vào thế kỷ thứ 9. Thời kỳ Kamakura  khéo léo kỷ thuật đã làm lan tràn  chế tạo đồ gốm , giấy  và đúc sắt. Taira Tadamori  và Kiyomori cũng đã để ý tới giao thương với Trung Quốc và đã đề xướng  dịch vụ này bằng cách  ra công cải thiện  các  tiện nghi ở các hải cảng  Biển Nội Địa Nhật.  Nhưng  tăng thêm giàu có và  đời sống dân gian , nổi bật nhất là  vào thời kỳ  Ashikaga. Một sự kiện  đủ chứng tỏ điều này ; năng xuất nông nghiệp tăng  hai ba lần hơn  tại nhiều nơi trong nước, nhờ cải tiến các phương pháp canh tác  và  tổ chức thành các đơn vị kinh tế lớn hơn  mới nông trang  phong kiến.  Kinh tế  vẫn tiến triễn , nội địa hay  giao thương với Trung Quốc, dù điều kiện rối loạn. Chiến tranh ở thế kỷ thứ 14 và thế kỷ thứ 15, đã tạo ra  yêu cầu ở nhiều  vùng Nhật xa xôi  và làm giao thông tốt hơn là một  thiết yếu  tại đất lành cũng như trên biển cả . Thủ công nghệ  mở rộng  để thõa mãn đòi hỏi chiến tranh  và khi hòa bình, làm nông cụ hay những đồ xa xỉ  tỉ như tơ sợi, đồ sơn - lacquers  và nhiều đồ khác mà các lảnh chúa  nay đủ sức mua sắm . Cùng lúc , tình trạng rối loạn cũng khiến cho các thương gia  và các thủ công kết hợp nhau để cùng bảo vệ nhau, theo một hệ thống gọi là za hay phường hội - guilds, đã có từ thế kỷ thứ 12 , nay  phát triễn mạnh. Za có nghĩa là một chỗ ngồi bán hàng ở chợ búa, thường liên kết với hội chợ đền thờ - chùa chiền  dưới sự che chở của một thể chế tôn giáo mạnh. Xếp đặt cọng sinh giữa  các tu sĩ và các thương gia  có lợi cho cả đôi bên. Thương gia có lợi trả lệ phí cho chùa  và  khi cần, để  chùa giúp đở  khi họ  thưa kiện lên tòa  hay bakufu  là quyền lợi họ bị xâm phạm. Tài liệu còn ghi rỏ là chùa giúp đở thu hồi nợ .  Chẳng hạn theo thời gian, za bán áo quần bông vải liên kết với đền thờ  Gion , za làm men rượu với  đền thờ Kitano .  Các thủ kho, đồng thời là các chủ tiệm cầm đồ liên kết với thể chế  tôn giáo Enryakuji  ở Núi Hiei , một trong những tu viện mạnh  nhất Nhật bổn.  Những đại  gia cũng đóng vai trò  đỡ đầu tương tự:  Bojo  đỡ đầu các nhà làm giấy,  Kono đỡ đầu  các thủ công  làm vàng lá  và Kuga đỡ đầu  phường hội"  đĩ quý phái - courtesans". Độc quyền địa phương bán một vài loại đồ đạc là  một đặc điểm của  phường hội Trung Cỗ Âu Châu và yếu tố này cũng thực thi ở Nhật bổn. Cũng có nhiều chứng cớ  tỏ ra là các phường hội họp lại nhau, nhưng chưa bao giờ mạnh như đại phối hợp Liên Hội-Hanseatic League ở Bắc Âu.  Giao thương vói Trung Quốc tỏ ra rất lợi. Nhật nhập cảng sắt, tơ sợi , thuốc men  và các xa xĩ phẩm như sách vỡ, tranh ảnh, đồ thêu ;  xuất cảng đồng và lưu huỳnh  và một vài hàng xa xỉ  Nhật chế tạo giỏi tỉ như quạt, đồ sơn, và khí giới đặc biệt là kiếm và bộ giáo - rìu chiến .  Năm 1483, Nhật bán sang Trung Quốc  37 000 kiếm.  Giao thương Trung  Quốc là do các thương gia, thường cũng là hải  tặc,  giặc cướp biển - pirates, nhưng ranh giới giữa hai nghề này ít khi vạch rỏ ở bất cứ nơi nào trên Cựu Thế giới.  Sau năm 1469, một gia tộc là Ouchi, ngự trị ở miền Tây đảo  lớn nhất Nhật, độc quyền buôn bán với Trung Quốc, mãi cho đến  khi họ bị một chư hầu lật đổ  năm 1557.  Shogun, bakufu thật sự không dính dáng đến thương mãi. Phần lớn thương mãi do các chùa chiền Phật giáo Nhật đảm trách , chứng minh vai trò quan trọng của Phật giáo ở xã hội Nhật.  Nhà sư -chính khách  Muso Soseki, môn phái Zen,  tổ chức một chuyến thuyền  sang Trung Quốc  năm 1342 , dưới sự hổ trợ của  shogun đầu tiên là  Askhikaga Takauji. Tiền lời chuyến này  đã giúp ông  xây dựng đền  chùa  Tenryuji temple. Tu viện Nhật không những  tài trợ các chuyến thương mãi mà còn phát triễn hải cảng nữa. Chẳng hạn, đền chùa Sumiyochi kiểm soát quyền lợi  hải cảng Sakai và tu viện cỗ Kokufuji ở Nara  quyền lợi hải cảng  Hyogo ( nay là Kobê ) . 

        Thời kỳ Shogun Ashikaga từ năm 1378 đến năm 1490 được mệnh danh là thời  đại hoàng kim của nghệ thuật Nhật Bổn.  Mạc phủ - tướng quân Ashikaga  có bộ mặt khác hẳn các Mạc phủ Yoritomo và  các nhiếp chánh Hojo. Khi Ashikaga chiếm địa vị chủ trì, trọng tâm quốc sự  một lần nữa chuyễn về  vùng Kyoto. Đời sống văn chương và nghệ thuật  luôn luôn vây quanh triều đình nhưng ít hấp dẫn shogun đầu tiên. Nhưng dòng Shogun Ashikaga  thứ ba Yoshimitsu   trở thành shogun năm  1368 và  shogun thứ tám  Yoshimasa  nhận chức năm 1443 và chết năm 1490,  cả hai đều ham mê  nghệ thuật  và rất hào hiệp bảo trợ nghệ thuật.  Yomimitsu  lãng phi chi tiêu cho các xẩy cất đến nổi gần xài hết ngân khố.  Yoshimasa  nhiều khả năng  và sáng tạo hơn như thể một nhà phê bình  và ân nhân  tinh tế  của kiến trúc, hội họa và bi kịch.  Đương thời, ông là một công cụ chánh yếu  làm thành thời đại được biết là  thời đại nghệ thuật Nhật to lớn nhất.

            Bản doanh  của Ashikaga  là ở quận  Muromachi của Kyoto, như chúng ta đã biết và năm 1378, 10 năm sau khi ông lên chức Shogun, Yoshimitsu xây dựng  Hana- no - Gosho ,  Hoa Dinh- Palace of Flowers , có nhiều vườn lộng lẫy. Ông tiếp tục  xây cất một dinh thự  xa hoa làm nhà ẩn dật  tôn giáo, di dưỡng tinh thần ở  Kitayama, dựng lên Đình tạ nổi danh  Kinkaku hay  Đình tạ Vàng Kim -  Golden Pavilion, bị lữa đốt cháy rụi năm  1952  và phục hồi lại y hệt như xưa.

           Ginkaku hay Đình tạ Bạc - Silver Pavilion  , ở  phía Kyoto khác  do Yoshimasa   ủy nhiệm làm một thành phần nơi ông định ẩn dật  Higashiyama. Đất đai xung quanh và các vườn  hoa là những cảnh trí  trầm tư  và hoạt động sáng tạo cho những nhân vật  nổi tiếng  ở  nhiều lảnh vực  nghệ thuật  và bi kịch - Naomi, Geiami, Soami , Kanze  và họa sĩ tài ba Sesshu , vào những năm cuối cùng thế kỷ thứ 15.  Từ ngữ Bạc nhắc đến vài trang trí dự trù chưa bao giờ thực hiện. Đình tạ yên tĩnh và  tự kiềm chế, dựng lên ở rìa một hồ nhỏ,  có đá bước qua suối, tiểu đảo  và cầu  cũng bằng đá do  các lảnh chúa khắp Nhật đem tới. Trên đất là một đền thờ  và gần đó là một  gò đồi  cát trắng  Đắp cao thành hình nón làm ra một nền ngắm trăng, nền vọng nguyệt -  moon viewing  platform. Ngay sau đền là một xây cất nhỏ bốn chiếu- mats  rưỡi ( phòng ốc xưa cũ Nhật do bằng tiêu chuẩn tatami - chiếu đan cỏ khô  6x3  bộ - feet  Nhật ). Đây là phòng ốc trà thất lễ lạc - tea ceremony room Nhật đầu tiên .

           Tính chất khiêm tốn và lặng lẽ  của trà thất Nhật đáng bình phẩm thêm.  Ai bước vào trà thất phải để ra ngoài long trọng, tráng lệ và hoàn cảnh thế giới. Vì cửa phòng thấp nên  chỉ vào được  bằng tay và qùi gối thái độ  khiêm nhường, không  được lộ ra kiếm dao các samurai thường đeo. Khi đã vào khách viếng phải cư xữ  hợp nghi thức và dè dặt , nhưng bên trong thoải mái khi  ngắm nghía, phê bình ấm, bình, chén cỗ dùng cho buổi lễ  hay tán thưởng  cách cắm hoa đơn giản  hay một cuộn   sách - giấy treo. Thông thường , khách không  bình phẩm áo kimono  hay  tài khôn khéo của bà chủ  tiệc làm lễ  đơn giản trong thông thạo -  simple in neatness ( simplex  munditiis). Nhưng khách cần chú ý tới  cách bà sử dụng tay và mọi cử chỉ,  khi bà  trình bày  những động cử  phong tục  sửa soạn và dâng mời trà xanh , gạt cả mỗi sủi  bọt con con, tuần tự cho mỗi khách. Những cử động này y hệt  tiến triễn và chòng chành một lối vũ lễ nghi. Cả một phương cách, dù lạ lùng và  tẻ nhạt đối với  dân Tây Phương , nhưng đầy ý nghĩa đối vói mọi dân Nhật. Phối hợp  sự thoát ly ra khỏi mọi lo lắng trên thế giới, thưởng thức nghệ thuật, trò chuyện trí thức, tôn trọng một lề lối phẳng lặng và mến thương hay lễ nghi- mọi điều này trong khung cảnh trầm tư Phật giáo- giúp cho linh hồn Nhật một cảm giác  tươi mát  và hạnh phúc. Một vườn rêu rong phải hiện diện trước mặt một trà thất .

          Shogun  Yoshimitsu  khuyến khích phát triễn bi kịch no, một hình dạng cỗ điển sử dụng  phối hợp các vật liệu khiêu vũ, âm nhạc và thơ thành một loại mới và đặc thù.  Tính chất no cũng giống như tính chất neng Trung Hoa, có nghĩa là một kẻ am hiểu khéo léo.  Các kịch no là những diễn xuất am tường phối hợp thi ca hát, kịch điệu bộ câm - mime,  và vũ điệu chậm kềm theo nhạc  y phục  chi tiết và mặt nạ. Đề tài lây trong vương quốc huyền thoại, lịch sử  và ảo thuật. Một phần biểu diễn no có tên là saragaku  hay " kịch khỉ - monkey plays " mộy yếu tố hề  thô tục liên kết với  các lễ nghi sinh đẻ. Sau đó yếu tố hài kịch tồn tại riêng rẻ ở  kịch kyogen ,giữa các khoản nghỉ trình diễn đứng đắn kịch no. Đặc điểm này tương tự  tiến trào song song của bi kịch và hài kịch ở Hy Lạp cỗ. . Ở cả hai ca Nhật và Hy Lạp , hài kịch phụng sự  mục đích nghệ thuật  cống hiến một an ủi nhẹ nhàng, sau khi chức năng tôn giáo của hài kịch đề xướng mẫn đẻ - fertility và đẩy xa các ảnh hưởng ma quỉ, đã bị quên lãng. Ngày nay ở Nhật, kịch no dành cho những kẻ lõi đời, khôn ngoan. Người Nhật trung bình thích xem kịch " máu  chảy và sét đánh" trực tiếp kabuki hơn.

            Thời kỳ  Sengoku -Jidai , thời kỳ đất nước chiến tranh   1534 -1717,   cũng là thời kỳ Nhật Thống Nhất. Vài thống nhất xúc động và trung thành đã luôn luôn có mặt  nuôi nấng bằng huyền thoại quốc gia  và sau đó bằng các lý tưởng Khổng giáo. Phát triễn văn chương và tư duy  ở thời kỳ Heian cũng đã phát sinh  cảm giác thống nhất văn hóa.  Một đôi chút thống nhất chánh trị  cũng đã do Minamoto Yorimoto rèn luyện ra, sau các chiến tranh tộc bộ  ở thế kỷ thứ 12. Nhưng tranh chấp giữa các lảnh chúa đã làm chiến tranh liên miên khắp  kéo dài đến 250 năm. Cuối thế kỷ thứ 16, Nhật trở thành thống nhất và thanh bình, theo cảm giác toàn diện và dứt khoát hơn. Niên đại này gần trùng điệp với niên đại cũng cố thành quốc gia các nước ở Âu Châu, đặc biệt thời các vua Anh Tudor  khôn khéo tập trung quyền lực. Nhưng ở Nhật, kiến trúc sư công cuộc thống nhất là các tướng chứ không phải  các vua. Thống nhất đưa Nhật vào một thời kỳ thanh bình và đồng nhất  lịch sử Nhật, thời kỳ Mạc phủ Tokugawa, kéo dài cũng 250 năm. Dù nội chiến ở thời kỳ Aghikaga và chiến tranh Onin  đẩm máu vô ích , cũng có nhiều yếu tố tăng trưởng và phát triễn tích cực. Tăng trưởng đáng kể  nội thương và ngoại thương , các thị trấn  thương mãi  bừng lên , cải tiến nông nghiệp,  đưa tới những thay đổi  lớn khung cảnh quốc gia. Ranh giới giai cấp giữa  các chiến sĩ quí phái  một mặt và dân giả bình thường , các con buôn , các  nông dân mặt khác  trở nên mù mờ hơn. Mọi điều này dẫn tới suy thoái phong kiến, nhờ những vùng rào - đất lọt vào giữa, tự túc và thù địch lẫn nhau, làm cho  thống nhất xứ sở có thể làm được và mong muốn. Đáng kể là cuối chiến tranh Onin, chỉ còn khoảng 20 lảnh chúa địa phương lớn - daimyo. Những thay đổi xã hội này  cũng xảy ra ở Âu Châu, cùng thời gian. Tuy nhiên, trên một khía cạnh , lịch sử Nhật lại theo một con đường khác.  Thống nhất hoàn tất  không phải bằng cách bải bỏ phong kiến , nhưng làm " đông giá " phong kiến, sử dụng  vài yếu tố phong kiến  nên đồng thời cũng  làm Nhật  cô lập với  ảnh hưởng bên ngoài có thể  tạo ra những thay đổi mới (  chiếu theo sách Đông Á, Đại truyền thống - East Asia, The Great Tradition của Reishauer và Fairbank ).

         Thay đổi mau lẹ và làm giật mình ở Nhật vào cuối thế kỷ thứ 16 , không thể xảy ra nếu không có sự cố súng hỏa mai - musket.  Trên một khôi hài lịch sử, sự cố súng hỏa mai gắn liền với Thiên Chúa giáo đến Nhật . Năm 1542,  một thuyền Bồ Đào Nha - Portuguese  trên đường tới bờ biển Trung Quốc bị chìm ở bờ biển Kyushu và  các súng hỏa mai trên thuyền sau đó được Nhật sao chép khéo léo. 7 năm sau  năm 1549,  giáo sĩ Dòng Tên - Jesuit  tiền phong Francis Xavier  lên đất Nhật ở Kyushu  và khởi sự công trình truyền giáo, rất thành công. Đây không phải là lần thứ nhất và lần cuối Tây phương đem tới một xứ không Tây phương ,những lực lượng uy vũ  và bùng nổ  các sáng kiến và ý nghĩ Tây Phương, thường  mâu thuẩn trái ngược nhau. Tuy nhiên ở Đông cũng như ở Tây,  các mâu thuẩn không được cảm giác vào thế kỷ thứ 16. như thể  chúng ta cảm giác chúng vào thế kỷ thứ 20.

              Dòng Tên Cơ Đốc giáo La Mã  đóng vai trò rất quan trọng  trong cuộc tiếp xúc thời lịch sử mới bắt đầu   giữa Âu Châu và Đông Á.  Một trong những lý do sự hửu hiệu này là vì Dòng Tên là một dòng  tu cận đại,vừa mới được thiết lập, nhấn mạnh đến hiểu biết hàn lâm, khoa học và thực tiễn và một kỷ luật cao cấp. Thiết lập viên Dòng là một nhà quí phái Tây Ban Nha, sinh viên đại học  Ba Lê, tụ tập quanh ông  một nhóm người khả phi thường. Khi Đức Giáo Hoàng chấp nhận đề nghị nhóm  phụng sự đặc biệt  cho Giáo Hội bất cứ nơi nào trên thế giới, họ lập ra Hội  Dòng Tên - Society of Jesus.  Xavier trở thành nhà truyền giáo cho Viễn Đông. Tiến triễn Cơ Đốc Giáo ở Nhật do Xavier khởi xướng là nhờ hai cơ may.  Thuở ban đầu, Nhật bổn và Bồ Đào Nha  rất thiện cảm nhau .  Dân Bồ Đao Nha thích dân Nhật hơn bất cứ một dân Á Châu nào khác, có lẽ vì họ thiện cảm quy tắc danh dự Nhật. Phía Nhật,  dân Nhật cảm phục Dòng Tên vì họ  thổ lộ một kỷ luật tương tự các nhà sư Zen giỏi nhất . Rất nhiều daimyo chuyễn đạo  là những  tín đồ  Thiên chúa giáo thành thực  và trung thành . Công trình  truyền giáo Dòng Tên thành công quá sức, khiến cho các  chức quyền Phật Giáo hoảng sợ , dùng đủ áp lực  trên Chánh phủ  đuổi các giáo sĩ Dòng Tên  ra khỏi kinh đô . Họ  rút lui về  Sakai , một thành phố độc lập, nhưng không có bao nhiều ảnh hưởng trên giới buôn bán. Năm 1582 , Hội Dòng Tên ở La Mã cho biết ở Nhật có 150 000 tín đồ và  200 nhà thờ.

       Vào thời kỳ này , như đã nói trên, Nhật bổn chín mùi cho Thống Nhất, nhưng nhiệm vụ không hoàn thành một cách dễ dàng đâu. Ba kẻ mạnh - Oda Nobunnaga ( 1634- 1582 , Toyotomi Hideyoshi( 1536-1598 ) và tokugawa Ieyasu ( 1543- 1616)  đã thực hiện thống nhất Nhật Bổn.  Nobunaga tự tử chết năm 1582&nbsIIp; thân thể bi đốt cháy,  bị một tì tướng Akechi đánh úp bất thình lình lúc thăm  viếng nghĩ ngơi ở đền thờ  trong  Kyoto.  Một năm sau  khi Nobunaga chết, Hideyoshi đánh bại một tướng trung thành với Nobunaga là Shibata. Bấy giờ Hideyoshi đã kiểm soát , gián tiếp hay trực tiếp  30 trong số khoảng 60 tỉnh Nhật . Hideyoshi giảng hòa cùng Tokugawa Ieyasu , một đồng minh phía đông và khởi sự cũng cố địa vị và tiến hành một chánh sách hòa bình. ông thiết lập một lâu đài ở Osaka , gần kinh đô, vì ông cho đó là nơi  tốt nhất để kiểm soát Nhật,  ở vị trí tu viên thành lũy Ikko tại Hoganji , Osaka đã bị phá hủy. Ông đã ra lệnh nghiên cứu điền thổ , đất dai , một bước tiến tương đương  Sách Địa bạ Anh  của Nhà Chinh phục William ( năm  1086 )- Domesday Book  of William the Conqueror. Công cuộc nghiên cứu bắt đầu năm 1583  và tiếp tục đến năm 1598, năm  Hideyoshi chết; lúc này đã có địa bạ của tất cả mọi tỉnh Nhật. Năm 1587 , Hideyoshi thắng trận quyết định gần sông Sendai, chống Shimazy , một daimyo ở cực nam Satsuma. Trở về căn cứ , Hideyoshi  ban hành một biện pháp bình định gọi là " Săn Bắt Kiếm Taiko- Taiko's Sword Hunt" , có hai mục đích : tịch thu mọi kiếm, ngoại trừ kiếm của samurai khiến cho nông dân,  nông dân quý tộc, tu sỉ nhà binh không còn khí giới nổi loạn và cũng để phân biệt rỏ ràng  giữa giới samurai và giới nông dân.  Nhưng còn đồng bằng  Kanto và  cực Bắc, cần bó buộc phải lệ thuộc. Hideyoshi đem 200 000 binh lính vây hảm thành Odawara, trung tâm Hojo ở vùng Kanto . Odawara  đầu hàng ngày 4 tháng tám năm 1590. Daimyo chánh  miền Bắc được kêu tới và chịu phục tùng. Cuối năm 1590, Hideyoshi đã làm chủ cả nước Nhật.

     Ở Việt Nam,  vào thời kỳ này , phải kể đến  Thiên Nam tứ chí  lộ đồ và Hồng Đức bản đồ  xuất bản thời vua Lê Thánh  Tông(  1460- 1466 ) còn lưu trữ đến ngày nay . ( Hà Mai Phương và Chu Thu Hằng - Dòng Việt,  2000 )

         Thời Hideyoshi, Thiên Chúa Cơ Đốc Giáo tiếp tục thịnh vượng như thời Nabunaga. Thành phố Nagasaki  thực tế do các giáo sĩ Dòng Tên cai quản và thương mãi Nhật - Bồ Đào Nha tăng gia. Nhưng năm 1587, bổng nhiên  các nhà truyền giáo nhận được một pháp lệnh  cấm truyền đạo Thiên Chúa  và họ phải rời bỏ Nhật trong vòng 20 ngày. Hai lý do pháp lệnh nêu lên là vài đền thờ Phật bị phá hại và người Nhật bị bán làm nô lệ. Một số giáo sĩ đáp thuyền trở về xứ. Nhưng chừng 100 giáo sỉ ở lại và trốn núp bí mật do các giáo dân mới nhập  đạo che chở, giúp đỡ.  Theo thời gian họ nhận xét là việc cấm đạo  ít khi thi hành. Số tín đồ nhập đạo  tiếp tục tăng mau và năm 1596 , tổng số tín đồ lên đến 300 000 người , trong đó nhiều tín đồ thuộc giới thượng lưu quý tộc Nhật. Thanh niên Nhật bắt đầu bắt chước thời trang Bồ Đào Nha, có khi đeo cả chuổi tràng hạt và thánh giá. Một số từ Bồ Đào Nha được ngôn ngữ Nhật thâu nhận, tỉ như pan - bánh mì , karuto -  carto  bài tây, tempura ( tôm chiên )- quattor tempura. Một  đảo ngược chính sách tái diễn, năm 1597, một năm trước khi Hideyoshi chết. Trong một cơn giận, ông ra lệnh  tra tấn và giết chết 26 tín đồ Thiên Chúa giáo, 6 giáo sĩ  dòng Franciscan Tây Ban Nha , 4 giáo sĩ dòng Tên Bồ Đào Nha  và 17 dân Nhật  tin đạo .

      Năm 1550, Bồ Đào Nha thành lập một giáo đoàn dòng thánh Đa Minh -  Dominicains ở Malacca ( nay thuộc Mã Lai Á - Malaysia )  phái giáo sĩ  Gaspar da Cruz  đến  hải cảng Hà Tiên giảng đạo, nhưng không có kết quả gì, vì dân chúng tin tưởng ở Ấn Độ giáo , Phật giáo , và không ưa chuộng những gì mới lạ của Âu Châu. Giáo khu  dòng  Đa Minh cũng phái hai giáo sĩ Y Pha Nho ( Tây  Ban Nha ) đến Cao Mên, nhưng họ bị dân chúng bạc đải, buộc phải trở về . Năm 1593,  ba thuyền chiến, tàu chở  120 binh sĩ Y Pha Nho đến Cao Miên viện binh  cho Miên chống Tiêm La ( Thái Lan ngày nay ).  Các tàu này ghé lại  Hội An - Đà Nẳng ? ( Touron - Tourane) tiếp tế lương thực .  Người Y Pha nho gây lộn và người Nhật, có người Việt ủng hộ , đốt một chiếc tàu , hai  tàu kia chạy ra biển , để lại trên bờ biển giáo sĩ  Diego Aduarte  và một tu sĩ khác. Trong thời gian  buộc cư trú ở xứ Đàng Trong,  có lẽ Aduarte đã bắt đầu  công cuộc truyền giáo . Đó chỉ là một phỏng đoán cho đến khi các giáo sĩ Dòng Tên từ Goa , Malacca  tập sự ở Macao  đến Hội An - Faifo mới thu được kết quả .( Phan Khoang : Việt sử xứ Đàng Trong, 1967 )       

              Sự cố cuối cùng của Hideyoshi là xâm lăng Triều Tiên - Cao Ly, một chiến địch động viên 250 000 người.  Chiến dịch khởi đầu  tháng tư năm 1592, chiếm hải cảng Pusan và thủ đô Hán Thành - Seoul dễ dàng, tiến tới tận biên giới Mãn Châu và toàn thể xứ Triều Tiên. Sau bất ngờ đầu tiên, Cao Ly  phản công bằng du kích. Đau ốm và mùa đông lạnh lẻo  đã làm chết 1/3  binh lính Nhật. Trung Quốc tuyên bố  Cao Ly là chư hầu Tàu và hoàng đế nhà Minh xua một đạo quân đánh Nhật ở Cao Ly. Nhật phải rút lui .  Nhật  dùng dằng giữa nên hòa hay nên chiến, khi sứ giả triều Minh đến thương lượng ở Kyoto,  muốn trao danh vị Hoàng đế Nhật cho Hideyoshi. Nhưng Hideyoshi mất bình tĩnh với  sứ giả Minh, sửa soạn một chiến dịch  mới năm 1597.  Trung Quốc  gửi thêm một đạo quân và  quân Nhật, dù đã được tăng  viện , bắt buộc phải tháo lui về bờ biển phía Nam  Cao Ly.  Nhờ viện binh Nhật từ Satsuma tới, Nhật giữ được Pusan và thắng nhiều trận đánh quânTàu và quân Cao Ly. Chiến tranh bất phân thắng bại này , kéo dài cho đến khi Kideyoshi chết,  năm 1598. Nhật lấy cớ này  để rút quân khỏi Cao Ly và  chấm dứt chiến tranh .

           Kế tiếp Hideyori là Tokugawa Ieyasu,  sinh năm 1543 từ một họ daimyo nhỏ là Matsudaira,  giữa hai họ lớn Imagawa và Oda. Khi Hideyoshi mất , ông đã có uy quyền lớn nhất ở Hội đồng Nhiếp chánh, có nông trang cho lợi tức 2 500 000 koku , 4 lần cao hơn  tài sản của  4 thành viên  Hội đồng. Tưởng cũng nên biết là thái ấp - đất phong của 5 thành viên Hội đồng chiếm 1/3 giá trị tất cả đất phong ở Nhật bấy giờ. Mục đích chánh của Ieyasu  là gìn giữ nền thống nhất Nhật.  Vị trí ông đạt được có nhiều người thèm muốn và ganh tị.  Năm 1600, Uesugi nổi loạn ở miền Bắc, nhưng bị hai  daimyo trung thành với Iweyasu kiềm chế . Ieyasu  lo ngại Mitsunari hơn,  vì ông này thu thập  nhiều đồng minh và  tiến đánh  từ phía Tây. Mitsunari  bị đánh bại ngày 21-  10-1600 tại đèo  Sekigahara, giữa đồng bằng  phía đông Hồ Biwa và đồng bằng bao quanh thành phố Nagoya. Dù rằng các chỉ huy  các trung đoàn  là cựu quân nhân  cuộc Chiến Tranh Triều Tiên và binh lính đông hơn, nhưng  chỉ huy  Kobayakawa  trở cờ theo Ieyasu, bất ngờ đánh vào các chỉ huy theo Mitsunari . Chiến thắng này của Ieyasu là một trận chiến khốc liệt , tàn sát dã man và cũng là trận chiến cuối cùng  của  nội chiến  lâu dài và kiệt quệ trên đất Nhật  cho đến ngày nay .

        Năm 1614 , Ieyasu quyết định  không cho dòng họ Hideyoshi tiếp tục chế độ hái ấp , vì  các thái ấp có thể  biến thành  nơi  quy tụ các người bất mãn. Không một daimyo nào  cứu trợ  con trai trẻ tuổi  của Hideyoshi, nhưng ronin -  nhóm samurai không chủ lại tập hợp ủng hộ  Hideyoshi trẻ , tăng đoàn quân trú phòng lâu đài Osaka lên đến  90 000 người . Hidetada,  vâng lệnh cha Ieyasu,  tiến đánh cứ điểm này , không phá nổi phòng thủ , nên mùa đông 1614 giảng hòa với các cố vấn cho Hideyoshi,  nhưng  mùa hè năm sau bội ước và tấn công lại.  Bị tràn ngập, Hideyoshi tự tử; mẹ là Yodogimi bị giết  chết dưới tay một kẻ giữ thành,  hầu tránh khỏi bị bắt.  Nay Ieyashu  thành lảnh tụ  nước Nhật , không còn ai thách thức nữa. Ông đã tái lập thể chế bakufu và năm 1603 ông đã  được hoàng đế phong làm shogun.

            8- Thời kỳ  Mạc Phủ - Shôgun Tokugawa Phần I ( 1615- 1715 ) và Phần II ( 1716-1867)
             Thời kỳ Phần I  Mạc Phủ- Shôgun Tokugawa ( 1615- 1715) là thời kỳ Nhật bổn

  thanh bình và thịnh vượng .  Tokaido , " Con đường Biển phía tây " giữa kinh đô cũ Kyoto  và kinh đô mới Edo đầy nhóc người , kẻ  du hành doanh vụ, kể hành hương  phối hợp  khoái lạc và  du lãm. Nếu họ thấy  một đoàn diễu hành  lảnh chúa lớn ngồi kiệu từ Edo , có khi đến hàng trăm , hàng ngàn người,  họ phải lãng tránh ra xa,  hay quì mọp hai bên đường  cho đến khi lảnh chúa đi qua khỏi.   Nếu một thường dân nào đó tỏ vẽ không kính trọng khuôn phép  thì thật là xấu số, vì  võ sỉ samurai có  quyền hợp pháp  kirisute - "chém xuống và bỏ đi "  quyền giết  miễn hình phạt, không cần hỏi, giải thích gì cả.

            Đó là những diễu hành thủ lệ sankin- kotai tới lui Edo  hay ""chầu chực thay phiên"  do Mạc phủ đặt ra  là daimyo, cứ  năm cuối mỗi hai năm  phải đến 4 tháng ở triều đình Shôgun và 8 tháng còn lại về ở dinh trang mình.  Khi họ trở về dinh trang, họ phải để lại Edo  các bà vợ và gia đình làm con tin , để  chứng tỏ cư xử tốt đẹp.  Từ thay phiên có nghĩa là mỗi loại daimyo được chia ra làm hai:  một ở lại chầu chực , người kia về dinh trang . Đây là phương cách shogun  ngăn ngừa các lảnh chúa nổi dậy , buộc các lảnh chúa  tiêu xài tài chánh mục đích quân sự vào những hình thức dân sự, sinh sống thực hiện đúng theo cấp bậc mình.  Shogun còn cấm  các lảnh chúa  sửa chữa , cũng cố hay nới rộng  thành lũy ở thái ấp mình, nếu không được phép và   phải góp tài chánh xây dựng  công trình công cộng, gồm luôn  cả các lũy thành Tokugawa.  Hai biện pháp khác có tính chất kiểm soát cảnh sát là thiết lập hai hạng giám sát - censors ; cấp cao  cung cấp tình báo bí mật  cho bakufu về các daimyo , và cấp thấp  là " nhóm năm nhà - ngũ gia liên hệ " trong giới nông dân,  có trách nhiệm chung gìn giữ thanh bình , thu thuế hay xóa bỏ  giao ước trong nhóm . Một đề phòng khác, rút kinh nghiệm  thời nội chiến là  cấm bất cứ một daimyo nào  liên lạc trực tiếp với hoàng đế , mọi chuyện phải qua  người ủy quyền của shogun ở Kyoto.

          Tổ chức  chánh phủ Tokugowa , tối thiểu dưới thời  Ieyasu ,  dần dần đi sâu vào chi tiết , hình thức hóa  dưới thời những kẻ kế vị ông, cho đến khi thành dạng như sau, vào thời  Ieemitsu , shogun thứ ba (  1621- 51 ) . Tairo " Các Huynh trưởng Lớn - the Great Elders"  cố vấn cho Shogun  về các vấn đề chánh sách quan trọng  và cai trị nhiếp chánh  khi  một đứa con còn vị thành niên.Thoạt tiên có 3 Tairo, sau đó chỉ còn một . Roju hay "Hội đồng Huynh trưởng-  Council of Elders ", nguyên thủy chỉ hai người, cuối cùng là bốn người, một hệ thống luân phiên mỗi người một tháng. Ngoài việc cố vấn , Huynh Trưởng còn nhiệm vụ  giám sát  bộ máy thư lại chánh quyền , bao phủ các vấn đề daimyo,  và các tu viện,  liên hệ với triều đình hoàng đế, công tác công cộng và đúc tiền - coinage.  Hyojosho " Hội Đồng Công Lý-  Judicial Council "  thành lập bằng cách cọng thêm vài cao ủy - commissioners   vào các cố vấn Roju .  Những cao ủy này , ngoài  việc cai quản các bộ - thị  chánh phủ  còn có nhiệm vụ hành chánh và toàn án  tỉ như  chán phủ thị trấn ,  báo cáo hoạt động   các daimyo,  các tổ chức  tôn giáo   và tái chánh các  đất sở hửu  Tokugawa . Thành quả tổ chức cai trị này đúng là biểu lộ một quốc gia cảnh sát, công an  mà mục đích là duy trì tình cảnh nguyên trạng càng chặc chẻ càng hay .  

      Thúc đẩy mạnh mẽ duy trì nguyên trạng , giải thích  việc khủng bố  giáo hội Thiên Chúa ở Nhật  vì  giáo hội càng ngày càng được xem là tay sai  các lực lượng ngoại quốc .  Thời kỳ Hidetada ( 1616-23) , con và kế vị  Ieyasu , khoảng 700  tín đồ Thiên Chúa Giáo bị xử tử. Một số giáo dân nhiều hơn nữa phải rời bỏ gia cư, sinh sống nghèo khổ thảm hại.  Cao trào khủng bố  xảy ra  các năm 1637- 38  vào thời  shogun thứ ba Iemitsu , khi 37 000 nông dân , đa số là dân theo Thiên Chúa giáo hùa theo nổi loạn  của ronin  và các giới khác, tuyệt vọng  vì  chánh phủ cai trị xấu xa  và tình trạng kinh tế  yếu kém ,tại pháo đài cũ  bán đảo Shimabara. Bakufu  cần 100 000 binh lính, 3 tháng trời, với sự giúp đỏ hải quân Hà ( Hòa ) Lan  bắn phá từ biển  mới dẹp xong loạn. Tàn sát thật là kinh tởm  và chỉ một vài người trốn thoát.  Sau  cuộc nổi loạn Shimabara thất bại,  giáo hội Thiên  Chúa  bắt buộc phải trốn núp. Gíáo hội Cơ Đốc La Mã  ghi danh  3125  cá nhân tử vì đạo - martyrdom , trong số này không ghi danh các  người chết không tên ở Shimabara.  Tiếp theo  Nổi loạn Shimabara , Bakufu  đuổi ra khỏi xứ tất cả con buôn và kẻ truyền giáo Bồ Đào Nha, kết tội tử hình những dân Nhật nào  muốn đi ra ngoại quốc hay trở về xứ , và chỉ cho phép đóng tàu - thuyền  mới , giới hạn thể tích là 2500 giạ ( bushel ) - 36.3 lít, nghĩa là chỉ  vừa đủ để buôn bán dọc bờ biển, không giao thương ngoại quốc được  nữa.  Các con buôn Tàu bị kiểm soát gắt gao  và chỉ dân Hòa Lan - Dutch , người Âu Châu  duy nhất được phép vào Nhật mà thôi .  Thể lệ bakufu này rất quyết liệt vì  tất cả một phái đoàn ngoại giao Bồ Đào Nha đến Nhật điều đình tái lập giao thương  nhanh chóng bị xử tử .

     Quyết định  Nhật bế quan tỏa cảng thi hành thành công vào thế kỷ thứ 16 . Gíup Nhật  thêm vững bền và  đoàn kết nội tình  vào thời gian Nhật cần hai yếu tố này trong xã hội. Nhưng điều khôi hài là sự kiện bế quan tỏa cảng xảy ra , lúc  thế giới còn lại  mở rộng đó chào  trao đổi cùng nhau  hàng hóa và tư tưởng  nhiều hơn cả cứ lúc nào , từ trước đến bấy giờ. Sác xuất thay đổi xã hội và kỷ thuật  ở Tây Phương  trở nên mau lẹ  trong vòng hai thế kỷ  tiếp theo năm 1640 , trong khi ở  Nhật thay đổi  đã bị suy tính cân nhắc  của chánh sách Tokugawa làm chậm hẳn đi .

      Nguồn căn sức mạnh Nhật phô bày  vào thời kì cận đại hóa khẩn thiết  cuối thế kỷ thứ 19  là nhờ  samurai . Giới vỏ sĩ samurai cung cấp cho Nhật  một nguồn lao động  với cảm nghĩ mạnh mẽ về  nhiệm vụ, can đảm tinh thần và vật chất  và một  kinh nghiệm  hoàn hảo  làm tròn công vụ trên nhiều lảnh vực. Nhữg đức tính  đầy giá trị này được trau dồi qua nhiều thế hệ huấn luyện trên chiến trường cam go ,thế nhưng cũng phát sinh nhờ  thấm nhuần  luân lý Khổng giáo,  theo văn hóa Tàu ,du nhập thích nghi vào phong thổ Nhật trong thế kỷ thứ sáu.  Năm 1615, Ieyasu ra một pháp lệnh  cho các nhà Quân sự là  samurai phải  vừa học sử dụng võ khí, vừa học  lễ phép, tao nhã . Học " lễ phép "   ở đây có nghĩa là học Khổng Giáo . Đáng tiếc là  nguyên tắc giáo dục" tiên học lễ, hậu học văn"  sau này  nguồn gốc có lẽ cũng là Khổng giáo- Nho giáo ở Việt Nam , lại chỉ hiểu theo nghĩa  duy nhất dân sự văn chương chữ nghĩa chứ  không theo tinh thần võ văn quân sự.  Phật giáo trước đó là thừa tố  tiến bộ văn hóa ở Nhật, bấy giờ đã  xuống dốc. Thần Đạo là  một đồng minh của Khổng giáo , chống lại Phật giáo . Thế nhưng Khổng giáo nhiều đức tính bảo thủ  và nhấn mạnh đến lòng trung thành , thật là lý tưởng  cho mô hình quốc gia của nền cai trị Tokugawa.  Đặc biệt là học thuyết Khổng Giáo mới Chu Hsi - Hy?  ( 1130- 1200 ), một  học thuyết quốc gia chính thống, mỗi ngày thêm cứng nhắc -  đã lan rộng ở Trung Quốc. Học thuyết Khổng giáo mới đã được thảo luận ở triều đình   hoàng đế Go- Daigo năm 1333, nhưng  chỉ mới thịnh hành ở Nhật vào thời Tokugawa.

         Những năm shogun thứ năm, Tsunayoshi  ( 1680 -  1709 ) cai trị,  trùng điệp  một thời kỳ văn hóa quan trọng  gọi là thời đại Genroku Era (  ( 1688- 1704 ).  Liên quan đến văn hóa mới phát triễn đô thị - urban culture  và đâm hoa nỡ nhụy một  kiểu nghệ thuật và văn chương,  các chủ nhân  không còn là nhữg nhà quí phái triều đình, nhữg tu viện lớn  hay những daimyo mạnh mẽ  mà là các nhà buôn, các samurai và các thị dân.  Dù rằng giới samurai bị khủing hoảng tài chánh , tổng quát kinh tế thịnh vượng và đa dang..  Các cây thu hoạch để bán  như dầu mè , dâu tằm ,  chàm , mía  và thuốc lá thay thế  cây lúa gạo .  Bông vải - cotton  chiếm 25 %  sản phẩm 4 tỉnh  vào quý thứ nhất thế kỷ thứ 18.   Nông trại lớn tổ tiên để lại,  chia xé thành  những đơn vị nhỏ  có thể do một gia đình canh tác  mà thành phần,  nay thiếu nhân công,  đã có thể tăng thêm lợi tức  làm việc trong làng và ở các công nghệ tỉnh thành. Những doanh vụ nhỏ  bùng lên  thành những xí nghiệp  buôn bán lớn.   Nhà Mitsui , chẳng hạn , khởi sự bằng  nấu rượu sakê ở Ise mở một tiệm cầm  đồ và mua bán lúa gạo . Một  thành  viên gia đình Mitsui ,thiết lập một tiệm tồn trữ đồ tơ sợi ở Edo năm 1673 , thành công đến nổi ông mở  thêm nhiều chi nhánh ở Kyoto và Osaka.  Rồi Mitsui  lập doanh vụ ngân hàng theo chỉ thị  cả hai shogun và hoàng đế. Hảng Mitsui  thích nghi thay đổi  thành công hơn nhiều hảng buôn khác thiết lập thời Minh Trị Thiên Hoàng và tiếp tục  tiến triễn thành một trong số các đại công  ty Nhật thờì cận đại.  Ba thành phố lớn  tăng nhanh là Kyoto kinh đô cũ và Edo kinh đô mới . 4 thị trấn họp nhau lại thành thành phố Osaka , mệnh danh là " Phòng bếp của thế giới " vì có Hối đoái  Lúa gạo Dojima -  Dojima  Rice Exchange thiết lập ở Osaka năm 1679,  trở thành hối  đoái   giấy hẹn trả tiền - notes các kho trữ hàng  năm 1710, thay vì ngũ cốc và   giao dịch  hợp đồng hàng sẽ giao - futures.  Rất nhiều thành phố  cở lớn mọc lên như  Nagoya,  Sendai,  Kumamoto,  Kagoshima,  Kanazawa, Hiroshima,  Hakone và Kofu  cũng như trên 100 thị trấn cở nhỏ hơn. 

       Trên phương diện nghệ thuật, kịch Kabuki phổ thông  thời ban đầu tiếng tăm xấu xa . Thành quả là bakufu  cấm  đàn bà liên quan đến kịch  làm đào nương. Thách thức đàn ông đóng vai đàn bà  giúp kabuki  trở thành một nghệ thuật bi kịch  rất điệu hóa . Nghệ sĩ Chikamatsu  Monzaemon (  ( 1653 -17 24 ) là một tài danh nổi tiếng nhất Thời đại  Genroku  , viết vừa kịch múa rối Buraku , vừa bi kịch  Kabuki. Tác phẩm kabuki được biết nhiều nhất  của Chikamatsu là  Chushingura ,chuyện kể của 47 ronin.  Lảnh chúa của họ  bị  châm chọc cố tình của một  daimyo khác , nên rút kiếm  định đâm chết  daimyo này ở trong vòng  triều đình shogun. Vì hình tội, lảnh  chúa bị kết án tử hình.  47 ronin trung thành thề thốt báo thù.  Để tránh nghi ngờ họ phân tán đi nhiều nơi, chờ đợi cơ hội. Họ hẹn cùng gặp nhau ở một nơi , rồi tụ họp sau khi đi bộ một đêm tuyết rơi, bắt chụp giết kẻ thù  bất ngờ không phòng vệ. Rồi họ đến nhà chức trách thú tội. Đáng lý họ phải bị xử tử,  nhưng  xét vì họ  tín nghĩa  giri - nhiệm vụ và bổn phận, họ được phép tự sát, một trừng phạt  nhẹ hơn cho cái chết danh dự .

       Nhà thơ  Matsuo Basho (  1644 -94 ) chắc chắn là thi sĩ được nói đến nhiều nhất ở Nhật đương thời.  Đặc biệt những bài thơ ngắn tên là  haiku có nhiều người bắt chước nhưng không ai bằng được ông. Thơ trữ tình truyền thống  tanka ,phát sinh từ  thế kỷ thứ 17, đã khá ngắn, chỉ có 31  chữ. Nhưng haiku rút ngắn thêm, chỉ còn 17 chữ.  Haiku còn phổ thông mãi đến ngày nay ở Nhật  và nay cũng đượcc ưa  chuộng ở Tây phương nữa.

        Giàu có tăng gia ở giới buôn bán và  sở thích lạc thú của họ,  trong đó có sự tham dự của giới samurai , nổi danh tại  các khu xóm  Edo và Osaka, không bị chút nào giới hạn có bồ bịch và  quan hệ tình dục, được phản ảnh thật rỏ ràng  trên nghệ thuật  bấy giờ, cách in trên gỗ -  woodblock prints.  Nhưng tấm in này được  các thuyền trưởng và con buôn đem về  thế giới Tây Phương, biến thành nhưng món đồ sưu tầm , thu thập ỏ Châu Âu và Châu Mỹ. Chúng có ảnh hưởng đáng kể  trên công trình họa sĩ Toulouse - Lautrec và các nghệ sĩ khác thời ông.  Dù được phổ thông ở Nhật các bản in này bị khinh khi  là   có đề tài thấp hèn và thô bỉ của các người Nhật thành thạo họa  kiểu Trung Hoa. Màu sắc lòe loẹt, nét dòng trôi chảy,  tiêu chuẩn thầm mỹ cao, sức lôi cuốn con người thiên nhiên trên các đề tài, , mọi sự phối hợp thành thời đại lớn cho  ngành in màu Nhật  ở cuối thế kỷ  thứ 18 và đầu thế kỷ thứ 19, làm ra một  thể chất nghệ thuật phổ thông,  hầu như không ai sánh nổi trên thế giới. Cách in trên gỗ này thật sự đã xuất hiện ở Tàu , nhiều thế kỷ trước., nhưng  các bức họa   viễn cảnh có viết chữ của Tàu thường là đen trắng.  Bức họa Nhật trên gỗ , ưu việt dùng  màu sắc , ấn tượng tế nhị nhờ  cách pha trộn màu, độ màu thay đổi đậm lợt  và chùi đi  màu đã sử dụng .   

      Ở Việt Nam  sau thời kỳ nghệ thuật Lê sơ thế kỷ thứ 15 để lộ  thẩm  mỹ thích cao phong , uy nghi của vương quyền, hình dáng những con rồng xa hoa, các thế kỷ thứ 16 , và 17 làm nổi bật nhưng nét nghệ thuật  dân dã , biểu hiện độc đáo cho tâm hồn Việt Nam là những mảng  chạm gỗ khắp  các đình làng  Bắc Bộ và  Bắc Trung Bộ .Nghiêm trang , học thức thẩm mỹ cỗ điển   đã nhường chỗ cho niềm vui của sự sống . Những hình tượng tôn giáo  lý tưởng xa xăm nhường bước cho  cảnh đi cày, bế con , bổ củi,  chọi gà , đánh vật  bơi thuyền, tình ái,  say rượu …

     Văn học  từ thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ thứ 15, sau những chiến công chống ngoại xâm  của Ngô Quyền, Lê Đại Hành,  Lý Thường Kiệt…   là bước đầu xây dựng  nền văn hóa độc lập  mang bản sắc dân tộc, hòa hài  hai dòng văn học dân gian và bác học  vun đắp cho nhau . Ngoài việc nhà nước phong thần và dựng đền : Tản Viên, Thánh Dóng, Bà Trưng , Bà Triệu …, các trí thức sưu tầm  các truyện thần thoại , truyền thuyết dân gian: Việt điện  u linh ( thế kỷ thứ 14 ) , Lĩnh Nam chích quái ( thế kỷ 15 ),  Đại Việt sử lược ( thé kỷ 14 ),  Đại Việt sử ký toàn thư ( thế kỷ 15 ) …  Phát huy truyền thống ấy, những sáng tác  mới của dân gian  và trí thức đều nêu cao  chí khí giết giặc, ý thức làm chủ giang sơn và tinh thần nhân nghĩa. Thơ văn  của nhiều thiền sư, nhiều tướng sĩ đời Lý , đời Trần ra đời cùng một lúc với những truyền thuyết về các anh hùng cứu nước, về tài trí  các ông Trạng Việt Nam  ứng đáp sứ Tàu, về phép thần thông của nhiều nhà sư yêu nước   v.v… Đặc biệt vào triều Lê Thánh Tông , phát triễn  phong phú văn học Việt Nam thế kỷ thứ 15, lịch sử còn ghi  hơn 80 tác giả với  nhiều thi, văn  tập chữ Hán, chữ Nôm. Sự kiện quan trọng của giai đoạn này là sự ra đời  của chữ Nôm và  và văn học Nôm. Đáng buồn là vào năm 1406 , giặc Minh xua 80 vạn quân xâm lăng  nước ta, rồi chủ trương hủy diệt  triệt đễ mọi giá trị văn hóa Việt Nam, làm mất đi  nhiều sáng tác Nôm đời Lý, đời Trần. Nay chỉ còn lại một số tập thơ Nôm, nhiều bài có giá trị của Nguyễn Trãi ( Quốc Âm thi tập ), Lê Thánh Tông và hội Tao Đàn ( Hồng Đức  quốc âm thi tập ).  Hai thế kỷ thứ 16 và 17, dưới các triều đại cuối Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn  nội chiến liên miên, nhưng  văn học dân gian phát triễn rất mạnh trên mọi thể với tinh thần phản phong kiến  quyết liệt :  tục ngữ , ca dao, vè , ngụ ngôn , truyện tiếu lâm, cỗ tích, truyện  nôm , chèo, tuồng đầy tinh thần nổi loạn. Nhiều quí tộc thất thế và nho sĩ bình dân "đau lòng trước những điều trông thấy" ,  đã đem tài hoa  tổng kết  tư tưởng và kinh nghiệm nghệ thuật nhân dân , tạo ra  một loạt kiệt tác  chứa chan tinh thần  nhân đạo chủ nghĩa, giúp đẩy mạnh lịch sử  văn học dân tộc lên đỉnh cao rực rỡ, vào thế kỷ 18 và 19.

         Sở Cuồng ( tạp chí  Nam Phong số 54 , tháng 12 / 1921  ) sưu tập được với Nhật  Bản Sử Liệu,  một số văn thư  của các chúa Nguyễn, vua Lê, chúa Trịnh  trao đổi với các giới công tư Nhật bổn. Năm  1585,  chúa Tiên Nguyễn Hoàng gửi một bức thư  cho Đức Xuyên Gia Khương  nói về  5 chiếc thuyền Bạch Tần Hiển Quí, một thương gia Nhật ( chứ không phải là  giặc Tây dương như Thực lực Tiền biên ghi chép )  đi thuyền đến buôn bán.  Năm 1619, chúa Sải Nguyễn Phước Nguyên gả con gái ( không biết tên ) trong số 4  con gái( ba công nữ khác là Ngọc Liên,  Ngọc Vạn và Ngọc Khoa  ),  cho Hoang Mộc Tông Thái Lang. một thuyền chủ trong số 9 chiếc,vượt biển từ  Kinh Giới (  Kyoto ? ), Trường Kỳ ( Nagasaki ) qua lại Quảng Nam ( Xứ Đàng Trong ), lại cho người Nhật này lấy họ Nguyễn  là Nguyễn Đại Lương , để giữ vững tinh thần thân thuộc với Nhật bổn. Sau công nữ theo chồng về Trường Kỳ, rồi gặp lúc  Nhật nghiêm cấm ( thời kỳ shôgun thứ ba Iemitsu 1637 - 1638 )  thuyền Nhật xuất dương, nên phải ở  luôn lại Trường Kỳ. Vì sợ người ngoại quốc giả làm thương nhân để do thám, chúa Trịnh tập trung thương khách Trung Quốc và Âu Châu ở  Hiến Nam ( Phố Hiến ), cấm họ ra vào Thăng Long. Chúa Nguyễn ở Nam Hà cũng  áp dụng một chính sách ngăn ngừa tương tự , lập thương cảng Hội An, người Âu Châu gọi là Faifo( Phải Phố không ? ), xa thủ phủ Phú Xuân.  Hội An là một thành phố rộng rải, nhận rỏ ra hai khu phố: một do người Tàu ở, một thì người Nhật ở, có khu trưởng và y theo phong tục, tập quán  riêng. Người Nhật thường đem lại 4. 5 vạn nén bạc ; người Tàu đi một thứ thuyền buồm đem lại tơ lụa  tốt và sản phẩm đặc biệt Trung Quốc. Người Nhật, ngoài  việc bán mua cho họ còn gián tiếp  mua hàng Trung Quốc cho Nhật nữa. Vì  nhà Minh từ năm  1371  đã có lệnh bế môn, cấm dân  duyên hải xuất ngoại. Năm 1567, bỏ lệnh cấm này, nhưng vẫn cấm vượt biển và  xuất cảng  sang Nhật các phẩm vật  có tính cách quân sự và kinh tế.
       

            Thời kỳ Phần II Mạc Phủ, Shogun Tokugawa, thổi lại làn gió đổi thay ở Nhật  

          Một đêm khuya năm 1719 , Shogun thứ 8 Yoshimune thức dậy thảo luận sôi nổi cùng Nishikawa Joken, một thông ngôn cho các thương gia Hà Lan ở Nagasaki. Ông muốn Nishikawa giải thích  quả địa cầu  Nishikawa xây dựng  và muốn biết chi tiết  các kỳ diệu  trên trời một viễn vọng kính Hà Lan tiết lộ . Cũng như mọi nhà cai trị Tàu và Nhật có tinh thần trách nhiệm, Yoshimunde đang lao tâm vì      những lý do  tôn giáo  muốn lịch Nhật càng  chính xác càng tốt. Hầu gieo và gặt lúa  đúng ngày tháng và  hài hòa giữa Trời và Đất được duy trì. Công trình  Shogun hỏi đã được Cha Cơ Đốc Adam Schall biên soạn cho triều đình Tàu ở Bắc Kinh, một thế kỷ trước. Thành quả của những lưu tâm này là Yoshimune bải bổ việc cấm nhập khẩu  các sách vỡ ngoại quốc  với điều kiện các sách vỡ không dạy Thiên Chúa Giáo.  Phong trào thu nhập  kiến thức Tây Phương hay " Hà Lan " mệnh danh là rangaku (  ran là chữ viết giữa của từ Ho-ran-da  hay Hà Lan  và gaku có nghĩa là nghiên cứu hay một ngành học hỏi ), đã hiện diện lén lút  nay  mở rộng toang và tiến bộ lớn lao .

        Dân Nhật đã  học và cải tiến  từ dân Bồ Đào Nha  cách làm súng đạn, đại bác , bản đồ, nghề hàng hải, các vấn đề hải quân tổng quát và có lẽ quan trọng hơn hết  là sự hiện điện  và tính chất thế giới  Âu Châu.  Nhưng Tây phương đã tiến  mạnh mẽ hơn nhiều  giữa lúc dân Bồ Đào Nha đến Nhật cuối thế kỷ thứ 16  và thời đại shogun Yoshimune ( 1716- 45 ), đầu thế kỷ thứ 18. Giữa thời kỳ này là  thành công của Galileo , những thảo luận  rung trời lỡ đất của hội Hoàng Gia - Royal Society ( thành lập năm1662), và viện Hàn Lâm Khoa học ( thành lập năm 1666) , những thí nghiệm hóa học của Robert Boyle , và công trình  lý thuyết vững chắc của  Sir Isaac Newton.  Một khi cái nhìn  toàn cầu về vật lý học  đã thực hiện  thì áp dụng qua các ngành khoa học xã hội cũng được  chu toàn. Sau Thời đại Ánh Sáng - Enlightenment Age, Thế giới hoàn toàn đổi thay , không còn như trước hay trở lại nữa.

           Trước đó, các học giả Nhât học kỷ thuật Tây Phương bị cầm tù  hay bị giết chết .  Các lợi dụng ưu điểm tự do mới Yoshimune cho phép  rất thực tiễn.  Trước tiên họ không bị  lý thuyết hấp dẫn . Họ học qua ngôn ngữ Hà Lan  những đề tài thực tiễn như  thực vật học - botany ,  y khoa,  môn chế tạo pháo kích,   rèn luyện  quân lính kiểu Tây Phương và chiến thuật;  nhưng cũng gồm thêm  vài đề tài lý thuyết tỉ như toán học và thiên văn.  Năm 1771 , các bác sĩ tiền phong Nhật đã mỗ xẽ  một  phạm tội hình, chỉ chiếu theo sách vỡ . Một học giả khác  Aoki Konyo , giúp Yoshimune ước mong tăng gia cung cấp lương thực , đưa vào Nhật  Khoai lang - sweet potato và được mệnh danh là Tiến sĩ- Doctor Khoai Lang. Hiraga Gennai  ( 1728- 79 )  góp phần  du nhập , cải tiến  nhiều lảnh vực  từ thực vật học đến  quặng sắt , điện  và các  sơn dầu kiểu Tây Phương. Gần đến thế kỷ  thứ 18 các sách thiên văn học , y khoa , thực vật học và toán học được xem là tiêu chuẩn  ở Âu Châu,  thảy đều  được dịch ra và xuất bản ở Nhật . Năm 1811  một sở  dịch thuật chánh thức  được chánh phủ Nhật thiết lập, được biết sau đó  dưới tên là  Viện Kiểm tra Sách Dân Dã Man- Institute for the Investigation  of Barbarian  Books. Nhật phản ứng còn mau lẹ  và toàn diện về kiến thức Tây phương  đưa tới còn hơn  cả  Tàu, dù rằng Tàu  có một lợi điểm khó sánh ngang hàng, nhờ hiện diện các giáo sĩ Dòng Tên - Jesuits, đa số là các nhà khoa học hay chuyên viên kỷ thuật. Nhật đã đuổi các giáo sĩ Dòng Tên vì những lý do chánh trị, nhưng lại sử dụng mọi nguồn thông tin khác dù thiếu sót đi nữa .

       Tiếp theo Yoshimune, hiệu quả của bakufu suy đồi. Cả hai shogun thứ 9 và shogun thứ 10  đều không đủ sức đối phó  tình thế.  Thời Ienari, shogun thứ 10, Matsudari  Sadanobu, một  hội đồng huynh trưởng  có trách nhiệm đặt ra một chánh sách tục danh là  Cải Cách  Kansei Reforms . Sadanobu  cắt bớt  ngoại thương, làm ra các luật chặc chẽ hạn chế chi tiêu xa xĩ  vì quyền lợi quốc gia, cả đến việc  cấm dùng thợ cạo và thợ may mặc. Ông xếp đặt bỏ các nợ nần dân nghèo trong giới chiến sĩ và phục hồi nhấn mạnh nông nghiệp là  nền tảng quốc gia.  Thoạt tiên các biện pháp của ông  hủu hiệu, đem lại lòng tin cho chánh phủ. Tuy nhiên trong dài hạn , trên phương diện kinh tế , cải cách trở nên lố bịch- ngốc nghếch, vì căn bản dựa trên lý thuyết Khổng gíáo cỗ truyền, chứ không trên các thành quả  kinh nghiệm kinh tế .

        Tiếp theo Cải Cách Kansei là 10 năm đói kém nặng nề.  Sau đó  khó khăn tài chánh khiến chánh phủ phải tăng đánh thuế giới nông dân. Ba trận đói  nặng nhất vào các năm 1732, 1783 và  1832 , gây ra đau khổ dữ dội và lâu dài . Trận đói khởi đầu năm 1783, kéo dài 5 năm, theo nhiều báo cáo đã cho thấy nạn ăn thịt người và hàng ngàn ngươi chết đói ở miền Bắc. Những năm được mùa, nhiều nông trại chủ  đất và các nông trại nhỏ sung túc. Trái lại, nhân công ngành nông gặp nhiều khó khăn.  Bakufu  tuyên bố xem giới nông dân  như là nền tảng quốc gia, nhưng họ  đối đải nông dân  rất tàn nhẫn. Lý thuyết  là chỉ cho nông dân vừa đủ để sinh sống và đủ hột giống gieo mùa xuân năm tới và  lấy mọi sản  xuất còn lại dưới hình thức thuế khóa. Pháp lệnh dạy đời năm 1649, cấm nông dân hái lá cây làm nhiên liệu  hay dọn làm món ăn lúc đói kém; cấm nông dân uống trà hay sakê , cấm vợ nông dân đi du ngoạn hay đi bộ trên đồi, và phải ky dị nếu vợ  lơ là trách nhiệm trong nhà. Năm 1652,  một chủ làng  kêu nài  đòi giảm thuế  cho làng.  Giảm thuế được chấp thuận, nhưng  chủ làng bị xử tử, vì đã bạo gan  xin giảm thuế. Cho nên không lạ lùng gì thấy nông dân nổi loạn xảy ra thường xuyên, và đi cướp phá thành phố, thị trấn.  Ngoài ra còn có nhiều yếu tố hội tụ khác xói mòn tận chân  tinh thần đoàn kết dân tộc chế độ  Tokugawa xây đắp cẩn thận: sự hiện diện một số ronin - samurai vô chủ  thất nghiệp và tụ hợp ở thành phố, giới buôn bán bừng dậy, nhưng không được hệ thống phong kiến Nhật chấp thuận,  việc du nhập kiến thức và  kỷ thuật Tây Phương  có tính chất làm đổ vở  lề lối sinh hoạt Nhật truyền thống, nông dân nổi loạn  công khai. Đã phải đối đầu với nội tình nghiêm trọng, bakufu lại phải đối đầu thêm một đe dọa  từ bên ngoài  khi Thiếu Tướng (  Tá ? )   Hải Quân Hòa kỳ - Commodore  Matthew C. Perry đến Nhật.   
                          
         Sứ mệnh  Perry đôi khi được xem là lý do duy nhất  cho việc thay đổi thái độ Nhật từ ẩn náu qua  tham gia  thế giới cận đại; một giải thích thiển cận về thay đổi nội tình Nhật. Perry cũng không phải là kẻ gỏ cửa Nhật đầu tiên, tuy rằng ông  là kẻ đi vào  đầu tiên. Các nhà địa lý Nga  đã biết Nhật  từ  cuối thế kỷ thứ 17, và năm 1702 , Đại đế Peter the Great ( tiếng Pháp là Pierre le Grand )  đã phỏng vấn một thủy tủ  tàu Nhật chìm đắm . Dù Nhật cấm, nhiều giao thương bí mật đã xảy ra  ở thế kỷ thứ 18 giữa  dân Nhật và dân Nga  mà Nhật gọi là " Dân Đỏ Đảo Bắc - Red Northern Islanders " ( từ các đảo  Kurile ). Thành công của Thiếu Tá Perry  sử dụng  điều đình với sức mạnh , bắt buộc Nhật  phải mở cửa, được lịch sử Tây Phương  đề cao vì đó là  một vài cơ hội hiếm hoi thời bấy giờ  Hoa Kỳ thay vì  các lực lượng Âu Châu hành động thật năng nổ, hung hăng. Perry  mong muốn trao bức thư Tổng thống Fillmore  cho " Hoàng đế " mà Perry tưỏng là nhà cai trị thực sự , không biết đúng ra  phải là  shogun.  Sau khi trao bức thư,  khéo léo nễ mặt dân Đông Phương,  Perry nói là dành một năm cho  chức quyền Nhật xét đoán và sẽ trở lại với một lực lượng hùng hậu hơn.  Chánh quyền Shogun tiến thoái lưỡng nan.  Lòng Ái quốc , niềm kiêu hảnh quốc gia  và chánh sách cô lập,  tất cả  nhắm về chối bỏ  mạnh mẽ các đòi hỏi của Hoa Kỳ. Nhưng các cố vấn  cho Shogun biết rỏ là Mỹ súng ống mạnh hơn . Vấn đề là Mỹ có sử dụng súng ống hay không, và mọi chỉ dẫn đều cho thấy Mỹ muốn  dùng vỏ lực ủng hộ đòi hỏi, như dân Anh đã làm ở Trung Quốc.  Ở tình trạng lưỡng nan này  Shogun lần đầu tiên thỉnh ý triều đình hoàng đế Nhật và tất cả mọi lảnh chúa địa phương- daimyo khắp nước . Nhưng Abe Masashiro, cố vấn chánh cho shogun cảm nhận là thật cần thiết cho quyền lợi quốc gia, thỏa thuận càng nhiều càng tốt trong chính sách điều đình với các ngoại quốc hung hăng.  Đa số daimyo trả lời cho shogun  đều muốn chống cự , dù có vài daimyo  đã tiếp xúc với Tây phương muốn trì hoãn. Triều đình hoàng đế hoàn toàn chống đối mọi nhân nhượng. Abe quyết định  cần thiết phải điều đình , sau khi ước lượng lực luợng và ý  chí Mỹ - Hoa Kỳ .  Khi Perry trở lại Nhật năm 1854  như ông đã hứa, các chức quyền shogun  sử dụng chiến thuật trì hõan, nhưng cuối cùng  chịu nhượng mọi đòi hỏi chánh yếu  của Mỹ.  Hòa Ước Kanagawa mở hai hải cảng nhỏ là Shimoda hẻo lánh và  Hakodate  ở đảo Hokkaido xa xăm.  Thực thi hòa ước mới dài dòng và khó khăn. May là Mỹ đã  phái đến một sứ thần  mềm dẻo là  Townsend  Harris .  Harris  dùng biện cứ là  sẽ trả tiền  cho Nhật một khi có thỏa  thuận giao thương,  thay vì đưa cao  tham vọng đế quốc của Anh và các nước Âu Châu khác, như đã thấy ở Trung Quốc.  Tháng 7 năm 1858 , một thỏa ước thương mãi được ký kết  giữa Nhật và Hoa Kỳ, mở thêm nhiều hải cảng mới, các  khu vực đặc quyền ngoại giao - extraterritorially và cư trú ngoại quốc  ở Edo và Osaka, một thỏa hiệp quan thuế  và nhũng điều khoản Hoa Kỳ cung cấp cho Nhật  tàu, vỏ khí  và chuyên viên kỷ thuật. Những thỏa ước tương tự  sau đó ký kết với  5 nước Âu Châu: Nga, Anh, Pháp và Hà Lan.

          Hòa Ước Harris  gây ra nhiều tranh luận  lớn ở cả hai triều  đình shogun và hoàng đế . Khó khăn cho chánh quyền Shogun  càng tăng thêm, khi các  lực lượng ngoại quốc đòi bồi thường những vi phạm  hòa bình, uy quyền shogun suy thoái  không có sức ngăn ngừa.  Tấn công ngườì ngoại quốc  và dân Nhật thân ngoại quốc, không những do các samurai  cách ly  còn cả daimyo nữa.  Đặc biệt là hai thị tộc Choshu và Satsuma, đẩy mau  sự sụp đổ chế độ Tokugawa. Năm 1866,  shogun thứ 13 chết và Keiki lên thay. Ngày 3 tháng giêng  1868 , Satsuma và Chosun   được hai  dinh trang bà con là Echizen và  Nagoya  cùng  hai dinh trang  xa xôi là  Tosa và Hiroshima, giúp sức chiếm dinh thự thành quách shogun. Tuy ít quân hơn, nhưng khí giới tốt hơn, họ đánh bại lực lượng của  Keiki  ở các thôn xóm  Fushimi và Toba , phía Nam Kyoto , ngày 17 tháng giêng 1868.




Con Dân Nước Việt là những người đặt Tổ Quốc lên bản vị tối cao, tối cao có nghĩa là trên tất cả mọi vật, kể cả tôn giáo, đảng phái, và cả chính bản thân mình.


No comments:

Post a Comment