*** QUYỀN LỢI TỔ QUỐC & DÂN TỘC LÀ TRÊN HẾT *** KHAI DÂN TRÍ, CHẤN DÂN KHÍ, HẬU DÂN SINH ***

2012/03/28

Thế trận đã bày

Thế trận đã bày

Nguyễn Hưng Quốc

Binh sĩ Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc trước một cuộc tập trận ở Bắc Kinh
Hình: ASSOCIATED PRESS

Không cần biết gì về chính trị và cũng không cần theo dõi tin tức thường xuyên, bất cứ người nào có chút lương tri cũng đều biết sự uy hiếp lớn nhất, nặng nề nhất và nguy hiểm nhất mà Việt Nam hiện đã, đang và sẽ đối diện đều đến từ Trung Quốc. Bất chấp những lời lẽ ngọt ngào trong các văn kiện chính trị hay các bản thông báo chung, bất chấp những cái bắt tay lịch sự hay khúm núm (bằng cả hai tay!) của giới lãnh đạo hai nước, cuộc chiến tranh sắp tới của Việt Nam, nếu có, chắc chắn sẽ xuất phát từ một địa điểm: phía Bắc.
Không thể có khả năng nào khác.

Mối đe dọa từ phía Bắc nguy hiểm vì nhiều lý do. Thứ nhất, so với Việt Nam, Trung Quốc hiện nay rất mạnh, hơn nữa, càng ngày càng mạnh. Nếu chiến sự giữa hai nước bùng nổ, hy vọng một chiến thắng như năm 1979, về phía Việt Nam, chỉ là một ảo tưởng. Thứ hai, thế trận của Trung Quốc đối với Việt Nam phải nói là dày đặc. Trùng trùng điệp điệp. Về quân sự, không phải chỉ trên bộ mà còn trên biển. Và dĩ nhiên, phải kể trên không nữa, với lực lượng không quân của Trung Quốc càng ngày càng bỏ xa, cực kỳ xa, Việt Nam. Nhưng không phải chỉ có quân sự. Còn có mặt trận kinh tế với sự hiện diện của vô số công ty và đường dây thương mại Trung Quốc trên khắp hang cùng ngõ hẻm Việt Nam. Khi có chiến tranh, toàn bộ những đầu mối làm ăn ấy biến thành một con thuồng luồng khổng lồ siết chặt cái cơ thể ốm yếu gầy còm và quặt quẹo của Việt Nam khiến không ai có thể thở được. Nhưng thứ ba, quan trọng hơn hết, là ảnh hưởng của Trung Quốc trên bàn cờ chính trị Việt Nam. Khác với những lần đối diện với nguy cơ ngoại xâm khác trước đây, lần này, thái độ của giới lãnh đạo cũng như giới chức các cấp của Việt Nam, từ trung ương xuống địa phương, không thể không làm mọi người nghĩ ngợi: Hoặc họ ủng hộ Trung Quốc hoặc họ hoàn toàn thơ ơ trước sự đe dọa đến từ Trung Quốc. Nhiều người nêu lên khả năng: Họ bị mua chuộc. Khó có thể tìm được chứng cứ; nhưng nhìn thái độ hờ hững của họ, người ta không thể không đặt thành nghi vấn.

Có điều, với tư cách một nước, dù muốn hay không, Việt Nam cũng cố tìm cách tháo gỡ các thế trận do Trung Quốc bày ra. Từ một hai năm nay, thế trận của Việt Nam càng ngày càng lộ rõ. Có thể tóm tắt thế trận ấy thành hai điểm chính: Một, tìm cách dập tắt các sự phẫn nộ của dân chúng, để, một phần, khỏi làm phiền lòng Trung Quốc; phần khác, khỏi dẫn đến việc phê phán, đả kích, và từ đó, chống đối lại chính quyền Việt Nam. Hai, tìm cách thoát khỏi thế đứng cô lập và yếu ớt trong cuộc đương đầu với Trung Quốc.

Ngày trước, trong cuộc chiến tranh với Mỹ, miền Bắc có đến bốn đồng minh lớn: Trung Quốc, Liên Xô, khối Đông Âu và một số quốc gia trung lập (trong đó, nổi bật nhất là Ấn Độ). Sau, trong cuộc chiến tranh với Cam Bốt và Trung Quốc vào những năm 1978 và 1979, Việt Nam cũng nhận được sự giúp đỡ tận tình của Liên Xô và Đông Âu. Còn bây giờ, đối diện với Trung Quốc lần này, họ hoàn toàn cô đơn. Dù là thành viên của khối ASEAN, Việt Nam cũng không thể sử dụng sức mạnh của các nước Đông Nam Á được, một phần vì một số nước, kể cả Campuchia, nước láng giềng và thân cận nhất của Việt Nam, sẵn sàng theo hùa với Trung Quốc hơn là ủng hộ Việt Nam; phần khác, hầu hết đều sợ Trung Quốc: Không ai muốn đụng đến Trung Quốc nếu Trung Quốc không thực sự xâm phạm hay uy hiếp họ.
Thành ra, để tránh thế cô lập, Việt Nam phải tìm đồng minh ở những nơi khác.

Hầu như ai cũng biết đồng minh duy nhất có thể giúp Việt Nam trong cuộc đối đầu với Trung Quốc không có ai khác ngoài Mỹ. Chỉ có Mỹ mới đủ sức mạnh và động cơ để làm được điều đó. Nhưng quan hệ với Mỹ, dù có ít nhiều tiến triển trong những năm vừa qua, hoàn toàn chưa đủ để làm hai nước trở thành đồng minh của nhau. Thứ nhất là do thiếu niềm tin. Như là một di sản nặng nề của quá khứ xung đột kéo dài cả nửa thế kỷ, Việt Nam không tin Mỹ, và ngược lại, Mỹ cũng chả tin gì Việt Nam. Thứ hai, giữa hai nước chưa có những điểm chung cần thiết để xây đắp một tình hữu nghị vững chắc. Về kinh tế: chưa có và có lẽ sẽ không bao giờ có. Mối lợi của Mỹ đến từ Việt Nam chắc chắn không thể sánh được với những gì đến từ Trung Quốc, một nước đông dân gấp mười mấy lần Việt Nam. Nhưng sự khác biệt quan trọng nhất là các niềm tin và bảng giá trị được xã hội chấp nhận: người Mỹ, từ chính quyền đến Quốc Hội và dân chúng, luôn luôn phê phán Việt Nam về các chính sách phi dân chủ và chà đạp lên nhân quyền. Sự phê phán từ phía chính quyền có thể chỉ là những lời nói suông; nhưng sự phê phán từ phía dân chúng thì lại là sức mạnh: nó chi phối lá phiếu của họ trong các cuộc bầu cử. Lời nói suông của chính quyền, do đó, một lúc nào đó, dù muốn hay không cũng thành sự thực. Cuối cùng, Trung Quốc sẽ không bao giờ cho phép quan hệ đồng minh giữa Việt Nam và Mỹ biến thành thực tế. Họ sẽ chống đối đến cùng, và nếu cần, có thể tấn công Việt Nam trước khi Việt Nam và Mỹ chính thức bắt tay với nhau. Bởi vậy, ở đây có một nghịch lý: Việt Nam chỉ có thể được bảo vệ bởi Mỹ; nhưng bất cứ dấu hiệu khơi mào cho sự bảo vệ ấy đều sẽ châm ngòi cho một cuộc chiến tranh mà Việt Nam không thể thắng được với Trung Quốc.

Không thể đi với Mỹ, Việt Nam chỉ còn một lựa chọn duy nhất: liên minh với một số cường quốc hạng trung trong khu vực. Cho đến nay, ba nước được Việt Nam lựa chọn liên kết là: Nhật Bản, Ấn Độ và Úc.

Quan hệ giữa Việt Nam với Nhật Bản và nhất là với Ấn Độ đã có từ lâu, nhưng kể từ sau năm 1975, phần lớn chỉ giới hạn trong phạm vi kinh tế. Gần đây, từ chuyện kinh tế, các bên dần dần đi đến những sự hợp tác mang ý nghĩa chính trị, đặc biệt qua hiệp ước khai thác dầu khí trên Biển Đông giữa Việt Nam và Ấn Độ: Đó là vùng đang tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc. Các quan chức trong Bộ quốc phòng Việt Nam cũng lần lượt đến thăm Ấn Độ để bàn về các dự án hợp tác song phương trong lãnh vực quốc phòng, trong đó, Ấn Độ nhận trách nhiệm giúp trang bị vũ khí và thiết bị cho ngành hải quân Việt Nam, rèn luyện cán bộ quân sự trong hai kỹ năng chính: tiếng Anh và tin học. Hai bên cũng bàn đến các cuộc tập huấn chung.

Đáng kể nhất là quan hệ giữa Việt Nam và Úc: Một cuộc thảo luận chiến lược đầu tiên về các vấn đề ngoại giao và quốc phòng cấp thứ trưởng đã được tổ chức vào cuối tháng 2 vừa qua. Một số hiệp ước song phương cũng đã được ký kết. Trước mắt, Úc đang và sẽ giúp huấn luyện giới chức quân sự Việt Nam. Giới quan sát quốc tế hy vọng mối quan hệ giữa hai nước sẽ càng ngày càng sâu đậm và cụ thể.
Người ta không thể không tự hỏi: Tại sao Việt Nam lại chọn các cường quốc hạng trung như vậy làm liên minh chiến lược?

Trong bài "Vietnam Eyes Middle Powers", đăng trên báo The Diplomat ngày 5 tháng 3 năm 2012, Le Hong Hiep giải thích: chọn các đối tác như vậy, Việt Nam sẽ tránh được những phản ứng nhạy cảm của Trung Quốc. Trung Quốc chỉ sợ Mỹ và chỉ muốn Việt Nam đứng xa Mỹ. Nhưng họ không thể ra mặt ngăn chận các quan hệ giữa Việt Nam với các nước khác. Hơn nữa, qua các nước trong khu vực, hầu hết là các đồng minh chiến lược của Mỹ, Việt Nam có thể tranh thủ được sự giúp đỡ của Mỹ trong hoàn cảnh Việt Nam phải lâm vào thế đối đầu với Trung Quốc.

Có thể nói, chiến lược của Việt Nam là cầu cạnh sự giúp đỡ của Mỹ. Nhưng phải đi qua một con đường vòng.
Một con đường vòng rất xa. Và có thể sẽ không bao giờ tới.


* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

VIỆN TRỢ TỐI ĐA CHO DO THÁI BẰNG TIỀN ĐÓNG THUẾ CUẢ DÂN MỸ

Ông BS Đặng Vũ Ái với cái đầu bệnh hoạn bài Mỹ & Do Thái.
Bài viết dưới đây của tác giả HMT đủ đánh giá về ông BS ĐVA.
GÓP GIÓ
 
Góp ý về bài viết của Bs Đặng Vũ Ái :
OBAMA ĐÓN TIẾP LONG TRỌNG PHÁI ĐOÀN DO THÁI - VIỆN TRỢ TỐI ĐA CHO DO THÁI BẰNG TIỀN ĐÓNG THUẾ CUẢ DÂN MỸ - OBAMA COI THƯỜNG VNHN VỚI 150 000 CHỮ KÝ
Hạ Miên Trường
  Kính thưa BS Đặng Vũ Ái ,
Kính quý vị quan tâm !
      Hậu bối Hạ Miên Trường lâu nay rất cảm kích những bài BS Đặng vũ Ái viết trên Diễn Đàn. Không thể nào có câu trả lời vắn gọn cho câu hỏi BS đặt ra được, vì có quá nhiều mắt xích chằng chịt liên quan có đầu mối cách nay nhiều thế kỷ. Những diễn biến hằng ngày liên tiếp xảy ra khắp thế giới là kết quả của lịch sử , của kinh tế , tài chánh ,ngân hàng, chính trị và quá nhiều lãnh vực khác là điều mà không ai có thể dễ dàng lãnh hội được.
      Thiết nghĩ BS có phần chủ quan khinh địch khi cho rằng người Do Thái cha mẹ của nước Mỹ chỉ có vài triệu người tầm thường không hơn ai về tài chánh cũng như trí tuệ. Suy nghĩ như vậy là chúng ta đã thua ngay từ bước đầu rồi.
      Về trí tuệ, dân Do Thái chỉ chiếm 0,4 % dân số thế giới( 4 phần nghìn, cứ 1000 người trên trái đất thì có 4 người Do Thái so với dân Tàu đông gấp đúng 100 lần!!! ), nhưng lại chiếm giữ hơn 1/2 các giải Nobel của cả thế giới. Đó là một kỷ lục đáng sợ. Nếu không thế thì phải giải thích ra sao về hiện tượng người Do Thái nắm giữ gần như tuyệt đối các vị trí huyết mạch trên chính trường và hệ thống tài chánh nước Mỹ?
      Về tài chánh, chỉ 1 nhóm nhỏ người Do Thái nắm giữ 1 nửa tài sản của cả thế giới !!! Điều này nói lên rằng , Do Thái là chủ nhân ông của nhân loại , trong đó có nước Mỹ ! Có tài sẽ có tiền và có tiền ắt có quyền ! Có quyền lại càng có tiền ! Một chân lý không bao giờ thay đổi. Mười mấy triệu dân Do Thái nhờ đó đã nghiễm nhiên trở thành cha mẹ nước Mỹ.
      Một quốc gia sẽ lập tức bị phá sản khi hệ thống ngân hàng sụp đổ.  Do Thái chỉ cần búng tay đã đủ để làm phá sản nước Mỹ thì việc nước Mỹ sợ sệt Bố Mẹ Do Thái là điều hiển nhiên. Tất nhiên Do Thái chẳng dại gì đánh sụp con bài chủ nước Mỹ là cái vỏ bọc họ cố công gầy dựng. Nước Mỹ chính là pháo đài kiên cố che chở mười mấy triệu người Do Thái và cũng là phương tiện duy nhất bảo đảm được kế hoạch thống nhất thiên hạ về một mối còn gọi là chiến lược toàn cầu hóa đang từng bước hình thành suốt 100 năm qua.
     Thế giới mới sẽ là 1 cái làng toàn cầu , trong đó khoảng 8% lợi tức sẽ chảy về tay Bố mẹ. Con cái toàn cầu dù muốn dù không đều chỉ biết cúc cung chăm chỉ làm việc, làm việc và làm việc để kiếm được đồng lương khả dĩ nuôi thân qua ngày.
     Con số 8% có nhiều không và có thể trở nên ngày càng giàu có không? Xin thưa có chứ. Giả sử ta có dư 1 triệu USD đem gửi ngân hàng với lãi suất lãi mẹ đẻ lãi con thì sau bao lâu ta có 2 triệu USD? Câu trả lời là sau 8 năm ! Người Do Thái ước đoán nắm trong tay khoảng 5 ngàn tỷ USD, và ... cứ tám năm sau số tiền đó được nhân đôi và thế giới ngày càng....nghèo đi ! Tại sao thế? Xin thưa là vì mức lạm phát trung bình hằng năm trên thế giới là 3,3 %, nhưng mức lương tăng chỉ nằm ở khoảng 1,5 đến 2 % là cùng, nghĩa là chỉ được đền bù khoảng phân nửa mức lạm phát. Càng nghèo đi đồng nghĩa với càng phụ thuộc sâu đậm hơn ! Người dân Mỹ thực chất là lao công chân chất và vận mệnh thế giới rồi đây cũng sẽ phải đi chung một quỹ đạo đã vạch sẵn.
     Cường quốc Kinh Tế là gì? Các cường quốc Mỹ , Nhật, Đức, Tàu,... có đáng sợ không? Thế giới có đang bị đe dọa thật không? Cộng sản có là mối đe dọa nhân loại hay không? Một nhà kinh doanh sẽ làm được gì nếu không có tiền ??!! Một nước Tàu giàu có sẽ ra sao nếu không có vốn?! Chắc chắn sẽ là 1 quốc gia tan hoang , lụn bại và nát bấy như tương. Nước Mỹ phải trở thành 1 cường quốc kinh tế khả dĩ bao bọc được một nửa nhân loại trong khối tự do hay những quốc gia còn chần chừ chưa dứt khoát tự nguyện gia nhập vào khối đó , mặt khác phải cung ứng thực phẩm cho một nửa khối độc tài đang dãy chết còn lại để tạo ra thế quân bình. Hàng năm Mỹ phải viện trợ 7 triệu tấn ngũ cốc cho Nga để Nga làm công việc xua cái đám chần chừ rớt vào vòng tay dang rộng của khối tự do. Bình định xong khối tự do , khối Cộng Sản trở nên thừa thãi. Mấy chục năm qua CS đã hoàn thành sứ mạng tàn phá chính mình khiến nước Mỹ được rảnh tay bình định thế giới , giờ đã đến lúc phải cất đi con bài CS vô dụng theo kiểu phát ngôn của Đức Giáo Hoàng trên chuyến đi Cuba.
     CS Nga và CS Đông Âu lần lượt sụp đổ chỉ để dành lại ông ngáo ộp Tàu cộng to tướng. Giờ đây số phận ông này cũng chẳng hơn gì ông ngáo ộp đàn anh Nga sô. Thế giới đã được bình định. Một Trật Tự Mới đã hình thành ! Cả thế giới đã quy về 1 mối. Không ai bận tâm về chủ thuyết chánh trị nào nữa mà chỉ cần biết ta phải sản xuất gì bây giờ để đem rao bán có lời nhất mà thôi. Mục tiêu đặt ra của bậc Cha Mẹ Mỹ đã chín muồi rồi. Bố Mẹ giờ này đang xoa tay mãn nguyện.
Trân trọng kính chào !
Hạ Miên Trường
     Tái Bút: Có vài câu nói đáng suy nghĩ xin được phép trích đăng sau đây làm quà mua vui :
      Rất nhiều vị tổng thống đã đưa ra lời cảnh báo về sự đe doạ của quyền lực tiền tệ. Nhiều ghi chép của quốc hội và các án lệ pháp luật đã nói rõ ràng tính chất tư hữu của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, nhưng có bao nhiêu người dân Mỹ, người dân Trung Quốc cũng như các quốc gia khác biết được điều này? Đây mới là điểm đáng sợ của vấn đề! Chúng ta cho rằng giới truyền thông uy quyền của phương Tây "tự do công bằng" sẽ phơi bày tất cả, nhưng trên thực tế, chân tướng của vấn đề luôn bị giới truyền thông cố ý "bỏ qua". Vậy còn sách giáo khoa của nước Mỹ thì sao? Vốn dĩ các loại sách giáo khoa Mỹ đều lấy việc lựa chọn những "nội dung lành mạnh" cho thế hệ sau mà bỏ qua các loại quỹ mang đanh nghĩa của các nhà ngân hàng quốc tế.
     Trước khi qua đời, tổng thống Wilson đã thừa nhận rằng mình đã bị lừa dối trong các vấn đề liên quan đến Cục Dự trữ Liên bang Mỹ. Ông đã day dứt khi nói rằng: "Tôi đã vô ý huỷ hoại tổ quốc mình".
     Khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ chính thức đi vào hoạt động ngày 25 tháng 10 năm 1914, cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất đã bùng nổ. Lại một sự "trùng hợp" hoàn hảo về thời gian! Các cổ đông của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đang hồ hởi chờ một mẻ cá lớn?
       (HMT)

Đổ Lỗi Phật Giáo Làm Mất Miền Nam Là Một Trò Hề Của Thời Đại

Đổ Lỗi Phật Giáo Làm Mất Miền Nam Là Một Trò Hề Của Thời Đại


Sự đổ lỗi Phật giáo làm mất miền Nam là một trò hề vô cùng lố bịch của thời đại. Tiêu biểu cho những trò hề này, hung hăng nhất, trơ trẽn nhất, ngang ngược nhất, lố lăng và lỗ mãng nhất không ai khác hơn là đám dư đảng Cần Lao Thiên Chúa giáo Vatican La mã mũi tẹt da vàng Vietnamese không hơn không kém. 

Nguyên nhân dẫn đến những sự đổ lỗi bất lương bất chánh này, căn bản là do bởi phong trào tranh đấu của Phật giáo năm 1963 nhằm phản đối chế độ ông Ngô Đình Diệm đã cho thi hành một chính sách bất công về quyền bình đẳng tôn giáo. Cụ thể nhất mà những trang sử ngày nay vẫn còn lưu lại cho đời là việc triệt hạ giáo kỳ Phật giáo trong mùa Phật Đản PL 2507 (1963), tấn công chiến dịch nước lũ vào chùa chiền trên toàn cõi Nam Việt Nam vào đêm 20.8.1963 mà anh em ông Ngô Đình Diệm đã thảo luận, khẳng định rằng việc mấy ông ấy làm là "vì Chúa, vì Giáo hội" (xem "Đảng Cần Lao" của Chu Bằng Lĩnh!). 

Nhìn tổng quát hành tung anh em ông Ngô Đình Diệm đã cho thi thố suốt thời Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1954 đến 1963 thì không thể phủ bác về những tính chất bao hàm các thứ độc tài Gia đình trị, Thiên Chúa giáo trị và độc đảng Cần Lao trị. Ai có thể chỉ ra, có một đảng phái chính trị nào khác với Đảng  Cần Lao đương thời lúc bấy giờ mà có thể có được trạng thái bằng khung cảnh tự do để hoạt động trong mô thức tự do đa nguyên đa đảng thì chỉ ra xem? Các đảng phái, các tôn giáo khác với Đảng Cần Lao, khác với đạo Thiên Chúa Vatican La mã lúc bấy giờ đều bị chế độ Ngô triều lên kế hoạch để sẽ lần lần triệt tiêu. Những chính khách nào dám chỉ trích, phê bình, lên án, hay âm mưu đảo chánh thì bị mạng lưới Công An Mật Vụ âm thầm bắt cóc thủ tiêu vô cùng dã man, tàn bạo. Danh từ đạo "Công Giáo" áp đặt nhét vào miệng nhân dân miền Nam cũng là thời kỳ này. Chứ ngay từ hồi Giáo sĩ Đắc Lộ giảng đạo bằng tiếng Việt, chữ Việt thì ông ta cũng đâu đã dám ngạo mạn dùng hai chữ "Công Giáo"! Phải chăng vì lẽ chính bản thân ông ấy có lúc còn bị triều đình Việt Nam đuổi cổ thì ở đó mà "công"!? 

Phật giáo thì bị lâm cảnh phong ba bão tố vô tiền khoáng hậu đối với lịch sử như đã thoáng sơ qua. Cao Đài thì Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc suýt chút bị táng mạng, nếu Ngài không thoát thân được sớm để chạy lánh nạn sang Cao Miên. Lực lượng Hòa Hảo thì tướng Ba Cụt Lê Quang Vinh bị gạt ra hợp tác, sáp nhập quân đội vào với quân đội Quốc Gia rồi phục kích bắt cóc, đưa ra tòa, chém đầu. Không cho gia đình nhận xác đem về mai táng. Vậy mà ông Lâm Lễ Trinh, người nhận nhiệm vụ từ ông Diệm làm Biện Lý buộc tội Lê Quang Vinh sau này nói chuyện gian dối, vô trách nhiệm là "chỉ có trời đất biết". Ông LLT thừa sức biết tất cả mọi việc đều do mệnh lệnh anh em ông Diệm (nhưng giấu giếm, đố dám nói thật?) chứ "trời đất" gì? Cho nên có người đã phê phán ngay: Tư Pháp, Tòa Án, Hồ Sơ, Chánh Án, Biện Lý, Công Tố, Bồi Thẩm Đoàn gì mà lại có thể ném qua ý nghĩa để cho "trời đất biết" vậy hả? (xem Những Bí Ẩn Lịch Sử Dưới Chế Độ Ngô Đình Diệm của Lê Trọng Văn). 

Những tay dư đảng Cần Lao ngày nay, sau hàng mấy mươi năm ngậm miệng, vụt ồn lên đổ lỗi Phật giáo, chửi rủa tướng lãnh đảo chánh, điêu ngoa nỗ lực bào gọt, hy vọng cho trơn những lầm lẫn vô tình hoặc cố ý mà chế độ ông Diệm đã gây ra cảnh thất sách, tội ác lên nhân dân miền Nam. Nhưng đâu có được? Đâu có đơn giản vậy? 

Riêng Phật giáo, những tay ôm mộng chạy tội ảo bằng cách nói rằng thời ông Diệm giúp xây chùa, nhiều trường Bồ Đề được thành lập này nọ là che mắt được lịch sử về hành vi bất minh bất chính mà anh em ông Diệm đã  làm "vì Chúa, vì Giáo Hội"? Chạy được tội trước tổ quốc, trước nhân dân đồng bào về việc ông Tổng Thống Diệm tuyên bố đem dâng nước Việt Nam cho một người đàn bà Do Thái còn trinh đẻ ra được con mà ông Bo Vu ở đâu đó cứ thắc mắc hoài?  

Nhưng, những điều dựng chuyện ba xạo đó (nói rằng ông Diệm giúp xây chùa Vĩnh Nghiêm, Xá Lợi…) đã thực sự bị chính tôi dẫn chứng để vạch mặt, bác bỏ thẳng thừng. Phải tự tin là hữu hiệu. Đơn giản chỉ vì đó là những sự thật mà thôi.

Nếu đám dư đảng Cần Lao viện lẽ dưới triều ông Diệm những chùa nào đã được xây dựng để biện minh rằng ông Diệm "tốt" với Phật giáo (cái này càng banh ra thì càng hiện rõ sự trớ trêu cay đắng)? Vậy thì, so với những chùa chiền, thậm chí thành những quần thể khu du lịch cho khách thập phương dưới thời CHXHCNVN hiện nay là điều khích lệ chứ không làm sao có thể tố cáo họ đàn áp được?! Nói tới chuyện "giúp đỡ" chùa chiền đối với những tay "thần dân của thành Rome" là làm tôi nhớ đến bối cảnh bi lụy, khốn nạn cho quê hương, cho Phật giáo Việt Nam về việc đám lính Gia Tô từ Bùi Chu Phát Diệm xuống Hà Nội lén đặt mìn phá hủy công trình kiến trúc Phật giáo có từ thời nhà Lý vào đêm 10.9.1954, đó là chùa Diên Hựu. Còn gọi là Chùa Một Cột.

Bây giờ, chúng ta thử ôn lại đôi nét về những diễn biến trên hoạn trường quan lộ, nhân sự và tình hình chính trị miền Nam trước đây xem sao việc những tay hoài Ngô muốn đổ lỗi cho Phật giáo về việc mất miền Nam có hợp lý hay không. 

Các tướng lãnh đảo chánh và những biến cố nghiêm trọng dưới triều ông Diệm: 

"Lần thứ nhất, Tướng Nguyễn Văn Hinh cuối năm 1954 bao vây Dinh Độc Lập, chiếm đài phát thanh, chỉ hằng ngày cho phát thanh chửi rủa gia đình họ Ngô nhưng không làm gì hơn nữa nên người ta gọi "đó là cuộc đảo chánh rùa bò".

Lần thứ hai, Tướng Nguyễn Văn Vỹ đảo chánh ngày 1-1-1955.

Lấn thứ ba, ông Hà Minh Trí (Cao Đài) ám sát hụt Tổng Thống Diệm ngày 21-2-1957 tại Hội Chợ Buôn Mê Thuột.

Lần thứ tư, Nguyễn Chánh Thi và Vương Văn Đông trong cuộc đảo chánh ngày 11-11-1960. 

Lần thứ năm, hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử lái chiến đấu cơ giội bom xuống Dinh Độc Lập sáng ngày 27-2-1962.

Lần thứ sáu, đảo chánh thành công bởi một tập đoàn tướng lãnh hùng hậu nhất từ trước, bắt đầu từ chiều ngày 1-11-1963 đến sáng ngày 2-11-1963 thì kết thúc chế độ." (Theo Trương Thanh Tân trên trang www.trungdao.net). 

Đoạn trích nêu trên, cho dù là của ai thì những sự kiện đó vẫn là sự thật đã xảy ra vào khung thời gian 9 năm anh em ông Ngô Đình Diệm cầm quyền. Trong sáu biến cố nghiêm trọng dẫn trên, không có cái nào là do Phật giáo, do mấy ông thầy, mà đó là do tướng lãnh, quân nhân, chí sĩ của miền Nam lúc bấy giờ.

Tình hình sau năm 1963:

Đảo chánh xong chế độ ông Ngô Đình Diệm ngày 2.11.1963, thì đến ngày 30.1.1964 tướng Nguyễn Khánh đảo chánh lần nửa, gọi là "chỉnh lý". Bắt nhốt hết mấy ông tướng nòng cốt lúc móc nối, đứng ra đảo chánh ông Diệm như Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Tôn Thất Đính, Mai Hữu Xuân và bắt luôn người cận vệ tướng Dương Văn Minh (nhưng ông Minh không dám can thiệp, che chở) là Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung (cho rằng là tay súng đã ám sát ông Diệm ông Nhu). Sau đó Nguyễn Văn Nhung chết.

Chúng ta hãy thử theo dõi đoạn này của vị cựu Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH qua hai thời kỳ Đệ Nhất và cuối thời kỳ Đệ Nhị VNCH, Trung Tướng Trần Văn Đôn mô tả trong Hồi Ký Việt Nam Nhân Chứng của ông, do Nhà Xuất Bản Xuân Thu, năm 1989 tại Hoa Kỳ, từ trang 367 đến 369 :

"Sau cuộc chỉnh lý, Nguyễn Khánh lên cầm quyền được các giới chức Mỹ ủng hộ. Tổng Thống Johnson gởi một thơ viết tay cho Nguyễn Khánh khen ngợi và hứa sẽ ủng hộ triệt để vì Nguyễn Khánh là người đang lãnh đạo Việt Nam chống Cộng đắc lực. Khối Thiên Chúa giáo coi ông như người của chế độ cũ ra chỉnh lý để trả thù cho ông Diệm. Với Phật giáo thì ông Khánh cho nha sĩ Châu là anh em bạn rể đến chùa Ấn Quang lân la phục vụ Thầy Trí Quang. Trong quân đội thì Nguyễn Khánh thăng cấp cho nhiều sĩ quan trong đó có Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Hữu Có… lên Trung Tướng và Nguyễn Cao Kỳ lên Thiếu Tướng. (Như vậy, với cấp bậc quân hàm cuối cùng làTrung Tướng và Thiếu Tướng của ông Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ là do Nguyễn Khánh ban cho - tqd). 

Lúc đầu Nguyễn Khánh được Tổng Trưởng Quốc Phòng Mỹ McNamara triệt để ủng hộ. Sau ông nầy thấy tham vọng của Khánh và kết quả của những việc ông ta làm nên thất vọng không nói gì đến Nguyễn Khánh nữa. Đến lúc Mỹ không những không tin tưởng mà còn đem lại nhiều khó khăn nên ông ta xoay qua liên lạc với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam." (Y chang anh em ông Diệm! - tqd).

Vợ Huỳnh Tấn Phát bị bắt, Nguyễn Khánh ra lệnh thả và viết thư riêng gởi cho Huỳnh Tấn Phát. Sau đó họ trả lời với Nguyễn Khánh là sẵn sàng đón tiếp về trong hàng ngũ của họ những người như Khánh. (Tháng 1 năm 1965 Khánh đến thăm tôi tại nhà 205 Hồng Bàng Chợ Lớn, có khoe  và đưa tôi đọc thư của Huỳnh Tấn Phát.)

Tình báo Mỹ biết nên Nguyễn Khánh phải ra đi ngày 25 tháng 2 năm 1965.

Trước đó Nguyễn Khánh là Chủ Tịch Hội Đồng Quân Lực. Khánh ra đi, Hội Đồng Quân Lực phải lựa người để đưa lên làm Chủ Tịch. Lẽ ra người đó phải là ông Dương Văn Minh – thâm niên nhất – nhưng ông minh đang lưu vong. Không ai dại gì dâng chức vụ cho ông ta khi họ nghĩ mình có thể nắm được. Vì vậy khi ông Dương Văn Minh về đến Bangkok thì người có thế lực lúc đó là các ông Thiệu, Kỳ không cho về nên phải lưu vong ở Bangkok. Những tướng trẻ đang dùng thì giờ làm những gì cần thiết để nắm chánh quyền. Tháng 4 năm 1965, nhóm tướng trẻ kéo nhau lại nhà Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu để yêu cầu ông cho về hưu tất cả Tướng Tá quân nhân đã hơn 25 năm ở trong quân đội tính luôn thời gian ở trong  quân đội Pháp. Lúc đầu ông Sửu đắn đo không ký nhưng về sau ông phải ký vì áp lực quá nặng. Vậy là tôi và Lê Văn Kim bị loại luôn. (Lúc ông Đôn là ông Tướng chỉ mới ở tuổi 48 – sinh năm 1917. Trong khi biết bao nhiêu Tướng, Tá Bắc Việt họ còn lớn tuổi hơn ông Đôn nhưng người ta vẫn đương nhiệm kinh nghiệm xông pha chỉ huy nơi chiến trường? - tqd).

Xong vấn đề nhân sự, còn lại là vấn đề thời thế và tình hình trong nước. Lúc đó ở thôn quê Việt Cộng gia tăng tấn công với những trận chiến khốc liệt. Trong thành phố lại biểu tình, biểu dương lực lượng mà hầu hết những vụ xuống đường này là phía Thiên Chúa giáo phản đối chính quyền yếu kém. (Đây là đám "thần dân của thành Rome" gây náo loạn trên đất nước Việt Nam! – tqd).

 Ngày 5 tháng 6 năm 1965, Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ Tướng Phan Huy Quát cảm thấy bất lực trong việc ổn định tình thế nên đã từ chức trao quyền điều khiển Quốc gia lại cho Quân Đội." 

Trần Quang Diệu bàn đoạn trên:

Đặc điểm một: Nguyễn Khánh chỉnh lý bắt nhốt hết những ông Tướng lúc đảo chánh ông Diệm như Lê Văn Kim, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính, Mai Hữu Xuân … và sau đó thì nhóm tướng trẻ áp lực nặng nề đòi Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu loại bỏ những Tướng, Tá có 25 năm kinh nghiệm quân ngũ.

Đặc điểm hai: "Lúc đó (1965 – tqd) ở thôn quê Việt Cộng gia tăng tấn công với những trận chiến khốc liệt. Trong thành phố lại biểu tình, biểu dương lực lượng mà hầu hết những vụ xuống đường này là phía Thiên Chúa giáo phản đối chính quyền yếu kém." 

Vậy mà, ngày nay, những tay hoài Ngô vì cái hồn ma của Ngô Đình Diệm mà họ không tiếc lời đổ thừa, rủa sả những vụ xuống đường biểu tình là chỉ có Phật giáo? Họ chửi rủa luôn những Tướng lãnh làm đảo chánh ông Diệm là làm loạn, là "bọn côn đồ". 

Và sau khi Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu, Thủ Tướng Phan Huy Quát từ chức, thì tới người nhận vai trò Thủ Tướng với danh xưng là Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương là ông Nguyễn Cao Kỳ mà ông Trần Văn Đôn đã viết:

"Hội Đồng (Quân Lực – tqd) cũng bầu một người nhận vai trò Thủ Tướng với danh xưng Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương. Trong phiên họp đó thoạt đầu có người đề nghị Nguyễn Chanh Thi nhưng Đại Tá Phạm Văn Liễu bàn với Nguyễn Chánh Thi không nên nhận bây giờ vì tình hình chưa được ổn định vì vậy nên Nguyễn Chánh Thi từ chối. Hội Đồng mới bầu Nguyễn Cao Kỳ vào chức vụ này." (TVĐ, sđd, tr 369. Từ đây người ta hay gọi là "Nội Các Chiến Tranh của Nguyễn Cao Kỳ", ra đời vào ngày 19.6.1965 - tqd).

Ông Đôn, trang 370:

"Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương Nguyễn Cao Kỳ cho dựng năm trụ cột trước chợ Bến Thành để xử tử những người làm hại quốc gia. Năm cột đó dành cho:

. Thương gia, đầu cơ tích trử lũng đoạn kinh tế,

. Công chức tham nhũng,

. Quân nhân tham ô,

. Tỉnh trưởng bóc lột,

.  Ăn cơm quốc gia hoạt động cho cộng sản.

Nhưng rồi Nguyễn Cao Kỳ chỉ cho bắn mỗi một mình Tạ Vinh người buôn bán gạo chợ đen và một Việt cộng đã có án tử hình. Mỹ (Do Thái? – tqd) cho rằng bắn người công khai là vô nhân đạo nên bắt phải dẹp mấy cột đó."

Biến Động Miền Trung:

"Suốt tháng 3 năm 1966 Miền Trung thật sôi động không những Phật giáo đồ mà dân chúng và các anh em quân nhân thuộc Quân Đoàn I cũng chống nhóm Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Hữu Có (1). Cuộc biến động Miền Trung càng lúc càng trầm trọng. Lúc đó Nguyễn Cao Kỳ đã lôi kéo được Thầy Tâm Châu ủng hộ Chính Phủ, nên khối Phật giáo chia làm hai là khối Ấn Quang và khối Vĩnh Nghiêm. Tháng 5 năm 1966, Thầy Thích Tâm Châu cho người đến chiếm Việt Nam Quốc Tự (nên gọi là Khối Việt Nam Quốc Tự), vì vậy mà hành động tranh đấu của Phật giáo không thống nhứt như lúc năm 1963" (2). 

Có thể nói, tình hình chính trị, nhân sự thì quân phiệt, độc tài, ép Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ Tướng Phan Huy Quát chịu không thấu để phải từ chức; loại các sĩ quan thâm niên kinh nghiệm; thọc tay gây phân hóa nội bộ Phật giáo v.v… (tôi đang nắm một số văn kiện gốc ngay giai đoạn đương thời lúc bấy giờ 1966, 1967 về việc gây phân hóa nội bộ Phật giáo này ra sao khi người PG lúc đó lên tiếng). 

Là một quốc gia VNCH thì phải có nền dân chủ Hiến Định qua trưng cầu dân ý, bầu cử để bầu lên một Tổng Thống và soạn thảo Hiến Pháp chứ không thể chỉ để một Hội Đồng Quân Lực và một Nội Các Chiến Tranh của Nguyễn Cao Kỳ đóng vai Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương mãi mãi được. Đấy là lý do Phật giáo, Thượng tọa Thích Trí Quang, nhân dân, đồng bào Phật tử và anh em quân nhân miền Trung Quân Đoàn I đòi hỏi. 

Ông Đôn viết về điều đó:  

"Cuộc tranh đấu của Phật giáo và và dân quân miền Trung là đòi hỏi Chính Phủ quân nhân của Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ phải thành lập Quốc Hội Lập Hiến để có Hiến Pháp cho Miền Nam Việt Nam."

"Kết quả vụ biến động miền Trung là Thiệu, Kỳ đồng ý lập một Quốc Hội Lập Hiến để soạn thảo hiến pháp cho nước nhà. Quốc Hội Lập Hiến ra đời vào tháng 6 năm 1966, tháng 12 năm 1966 thì soạn xong Hiến Pháp." (Trần Văn Đôn sđd, tr 372, 373).

Vậy mà, biến động Miền Trung đã phải gây ra những vụ đàn áp khốc liệt, đưa đến có trên "200 người vừa chết vừa bị thương. Khoảng 6,000 sĩ quan, hạ sĩ quan và quân nhân đào ngũ, một số người không lối thoát phải chạy lên chiến khu của Việt Cộng." (TVĐ, sđd, cũng trang 372).

Đọc tiếp Trần Văn Đôn mô tả:

"Lúc đó Tướng Nguyễn Chánh Thi đang điều khiển Quân Đoàn I cùng một số đông anh em quân nhân công chức yểm trợ cuộc tranh đấu của đồng bào và Phật tử Miền Trung. Thị trưởng Đà Nẵng là Bác sĩ Nguyễn Văn Mẫn, tín đồ Thiên Chúa giáo nhưng thấy nguyện vọng tranh đấu của đồng bào và Phật tử hợp lý nên ủng hộ nhiệt tình. Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ gạt mời Nguyễn Chánh Thi vô họp rồi bắt giam giữ lại ở Sài gòn." (TVĐ, sđd, tr 371)

Tiếp theo, Sài gòn cứ gởi tướng nào ra miền Trung để thu xếp cho êm thắm, thì những tướng như Tôn Thất Đính, Huỳnh Văn Cao khi ra đấy thì ông nào cũng thấy nguyện vọng hợp lý của đồng bào, Phật tử, anh em quân nhân Quân Đoàn I cho nên không ông nào làm gì được, bèn xông vô Bộ Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến Mỹ ở Đà Nẵng xin tị nạn chính trị.  Xin tị nạn chính trị như vậy nghĩa là Huỳnh Văn Cao và Tôn Thất Đính không thể trở lại Sài gòn chứ gì? 

Cuối cùng, một cuộc tấn công khốc liệt từ Sài gòn thì do đâu? Cũng theo Trần Văn Đôn, tr 371:

"Mỹ cho một số máy bay (cũng Mỹ nữa! – tqd) để Nguyễn Cao Kỳ và Tướng Cao Văn Viên Tổng Tham Mưu Trưởng đổ quân ra chiếm Đà Nẵng (đặng đến 1975 thì bỏ quân, bỏ nước, bỏ cả đồng bào mà dzọt êm thắm mất? – tqd) rồi từ Đà Nẵng tiến ra Huế cùng lúc đó không quân yểm trợ bắn chiếm các chùa. Thầy Trí Quang mới ra lệnh tất cả Phật tử đưa bàn thờ Phật ra đường để ngăn quân xa. Một số anh em Đuân Đoàn I cùng Phật tử và dân chúng kháng cự lại nhưng trước sự đàn áp thẳng tay của chính quyền Sài gòn, trước xe tăng và phi pháo thi nhau khạc đạn, những người lãnh đạo Miền Trung không muốn gây thêm chết chóc nên khuyên những ổ kháng cự của dân quân buông súng." (3) 

Đưa bàn thờ Phật ra đường là hình thức tranh đấu bất bạo động. Nhưng bàn thờ Phật có ngăn chặn được quân xa, chiến đấu cơ giội bomb và nòng súng khạc đạn hay không mà ngày nay nhóm Liên Thành và đám dư đảng Cần Lao cứ nhai tới nhai lui mãi? Bộ đám này luyến tiếc không còn cơ hội một thở tung hoành ngang dọc, làm mưa làm gió giết hại nhân dân đồng bào miền Trung qua lịnh của ông cậu Cẩn rồi đâm ra hậm hực mãi?

Chỗ đó, làm tôi tưởng, phải chi mà ông Viên, ông Kỳ, Mỹ cùng nhịp nhàng, thủy chung đến những ngày cuối của năm 1975 cương quyết yểm trợ chiến đấu cơ, cho súng khạc đạn như đã tấn công bắn phá chùa ở Đà Nẵng, Huế năm 1966 thì miền Nam không mất, khỏi đổ thừa? 

Sau biến động Miền Trung năm 1966, Phật giáo, TT Thích Trí Quang không làm gì đáng ngại nữa (Hiến Pháp Đệ Nhị VNCH đã ra đời). Ông Thiệu, ông Viên, ông Kỳ cứ mà lãnh đạo Đệ Nhị VNCH suốt 10 năm, không có ai ra tranh cử Tổng Thống với mình, nghĩa là "độc diễn". Mỹ đổ qua lần lần trên nửa triệu quân, một triệu quân VNCH, quân Nam Triều Tiên, Thái Lan, Úc, Tân Tây nữa mà để cho thua thì thôi chứ sao lại đổ thừa cho Phật giáo?

Anh em ông Diệm (Đệ Nhất VNCH) liên lạc với CS; ông Khánh (người thăng chức Trung Tướng và Thiếu Tướng cho ông Thiệu, ông Kỳ) cũng liên lạc với CS; ông Thiệu, ông Viên cầm viết kẽ lên bản đồ là sẽ giữ VNCH từ Ninh Hòa trở vào Nam nhưng cuối cùng lại sớm từ chức, được CIA Mỹ thu xếp co giò nhảy sớm thì thôi chứ sao lại đổ thừa cho Phật giáo? Thời Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu, Thủ Tướng Phan Huy Quát, những "thần dân của thành Rome" là Thiên Chúa giáo biểu tình chống "chính quyền yếu kém"; thời ông Nguyễn Văn Thiệu năm 1974 Thiên Chúa giáo – Lm Trần Hữu Thanh cũng biểu tình "chống"  chính quyền "tham nhũng" sao không chịu đổ thừa vậy hả? 

Mỹ "Do Thái" biết anh em ông Diệm liên lạc, móc nối với MTGPMN (ngoài chuyện giả dạng săn bắn để vô rừng là nhà của ông Tàu Chệt Mã Tuyên nằm ngay Chợ Lớn cho nên Mỹ "bật đèn xanh" cho đảo chánh. Ông Nguyễn Khánh cũng liên lạc với MTGPMN cho nên Mỹ biết, Mỹ cho lưu vong ra hải ngoại. Chính Mỹ là kẻ phát hiện ra Vũ Ngọc Nhạ v.v… Mỹ rất dữ. Vậy mà, ông TT Thích Trí Quang lại được Mỹ bảo vệ cho tị nạn suốt mấy tháng trời, từ đêm 20.8.1963 cho đến sau ngày 1.11.1963 lẫn cả thời gian chạy dài đến ngày Mỹ cuốn cờ rời khỏi miền Nam VN thì, Mỹ cũng không hề nói rằng ông TT Thích Trí Quang là "đồng chí" theo kiểu cách, theo luận điệu của những tay Cần Lao hoài Ngô vác thánh giá bao giờ. CSVN cũng không thể có lương phạn gì cho ông thầy Thích Trí Quang. Vì ông ta có công gì đâu? CS Bắc Việt rất thích để cho quân phiệt (không có chính phủ dân cử, không có Hiến Pháp) lãnh đạo miền Nam thì lòng dân càng nhanh chóng biến thành nhân dân của chính phủ CMLTCHMNVN nhiều hơn. Nhưng, ông thầy Thích Trí Quang lại làm hỏng mất ý muốn của họ nữa là khác. Cho nên, kẻ nào sử dụng hai chữ "đồng chí" để gán vào cho ông thầy Thích Trí Quang thì chỉ là trò hề kệnh cỡm, lố bịch.

Hai bên bờ giới tuyến:

Trong cuộc chiến tranh tương tàn dã man, khốc liệt bởi các thế lực tài phiệt và siêu cương quốc tế chỉ biết có quyền lợi của họ là trên hết, tôi không loại trừ có những thành phần Phật giáo lẫn Thiên Chúa giáo đều có ngã sang phe phái ở hai bên bời vĩ tuyến. Tuy nhiên, riêng trường hợp ông thầy Thích Trí Quang mà có kẻ bảo ông là "đồng chí" thì tôi phản đối quyết liệt. 

Đơn cử:

Miền Nam thì cả hai tôn giáo lớn là Phật giáo và Thiên Chúa giáo đều có tu sĩ tham gia ngành Tuyên Úy, có lương, có xe, có súng, có quân phục, có cận vệ v.v… Miền Bắc thì có những ông sư là đảng viên, cán bộ. MTGPMNVN thì có những ông sư như Thích Minh Nguyệt, Thích Thiện Hào đã từng là "Chủ Tịch Hội Phật Giáo Cứu Quốc Nam Bộ" – Thích Minh Nguyệt, lúc mà toàn dân nghe theo tiếng gọi "dậy mà đi hỡi đồng bào ơi" trong thời kháng chiến chống Pháp cứu nước. Có điều, ông thầy Thích Minh Nguyệt hoàn toàn là một nhà sư đi tu từ nhỏ, có tham gia phong trào Việt Minh chống Pháp rồi trở thành hàng ngũ của họ và bị bắt đày đi Côn Đảo cho đến năm 1974 thì trao đổi tù binh tại Lộc Ninh chứ không phải là "Đỗ Tấn Hời thợ hớt tóc" như Trần Trung Quân nói bậy ở sách "Trong Lòng Địch". Ông sư Minh Nguyệt sinh năm 1907 tại Thủ Dầu Một, Bình Dương, khi mà Ngài Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN Thích Huyền Quang mới 15 tuổi thì nhà sư Thích Minh Nguyệt này đã là cây viết chuyên nghiệp phụ trách tiết mục "Khởi Nguyên của Thiên Thai Thiền Giáo Tông" đăng trên Tạp Chí Bát Nhã Âm xuất bản năm 1935 lận cơ.

Nhân đây, tôi cũng muốn góp ý với tác giả Vũ Ánh ở Oakland, CA trong  một bài viết gần đây được phổ biến trên các diễn đàn bằng chủ đề "Thuong Toa Thich Quang Long" (Thượng Tọa Thích Quảng Long?). Có lẽ tác giả muốn nói về Thượng Tọa Thích Thanh Long, quyền Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật giáo sau khi TT Thích Tâm Giác (Giám Đốc) viên tịch/qua đời, nhưng ông Vũ Ánh lại viết lầm là "Thích Quảng Long" (người tham gia Nội Các của chính phủ Nguyễn Bá Cẩn năm 1975). 

Điểm thứ hai mà tác giả Vũ Ánh đã lầm là đoạn này: "

"Trong thời gian mới bị giam giữ, một hôm thầy (Thích Thanh Long? –tqd) được gọi ra làm việc để gặp hai vị sư quốc doanh là Thượng Tọa Thích Minh Nguyệt và Thích Thiện Siêu. Hai vị này ra sức thuyết phục và chiêu dụ thầy để thầy ủng hộ phong trào "Phật giáo yêu nước", và nói sẽ bảo lãnh cho thầy ra khỏi tù ngay để nhờ thầy góp công góp sức xây dựng phong trào Phật Giáo Yêu Nước này. Hai vị sư này chính là người mà Cảnh Sát Đặc Biệt thuộc lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia đã bắt giam trước năm 1975 vì hoạt động cho Cộng Sản."

Tôi nghĩ hai ông thầy mà tác giả Vũ Ánh đề cập ở đây là ông chỉ đúng có một là nhà sư Thích Minh Nguyệt. Còn nhà sư Thích Thiện Siêu mà Vũ Ánh muốn nói có lẽ Vũ Ánh đã lầm với nhà sư Thích Thiện Hào, sinh quán ở An Phú Đông, Gò Vấp, Gia Định. Hai ông Thích Minh Nguyệt và Thích Thiện Hào là cùng sư với nhau và tham gia từ thuở phong trào Việt Minh kháng Pháp cứu quốc. Hai ông sư Thích Minh Nguyệt và Thích Thiện Hào mới là những người đứng ra thành lập "Ban Liên Lạc Phật Giáo Yêu Nước" (BLLPGYN) chứ không phải Hòa thượng Thích Thiện Siêu. Nhà sư Thích Thiện Siêu cũng chưa bao giờ bị Cảnh Sát Đặc Biệt VNCH bắt lần nào trước năm 1975 vì hoạt động cho Cộng Sản. 

Chỉ từ Thích Thanh Long mà tác giả Vũ Ánh đã lầm sang Thích Quảng Long thì làm sao bảo đảm để ông có thể không lầm về nhà sư Thích Thiện Siêu này! 
Ngôi chùa Giác Ngạn tọa lạc trên đường Trương Minh Ký trước năm 1975 (hiện nay là đường Lê Văn Sĩ) mà Thượng tọa Thích Thanh Long trụ trì là ngôi chùa mà trước đó nhà sư Thích Thiện Hào làm tọa chủ trước khi ông được người ta "đưa vào chiến khu an toàn" rồi chuyển ra Bắc. Nhà sư Thích Thiện Hào cũng có một vị đệ tử là Đại Úy Tuyên Úy Phật giáo, đó là thầy Thích Tâm Đạt. Sau năm 1975 cũng phải đi tù "cải tạo" như bao nhiêu người khác. 

Kinh nghiệm về một cuộc chiến khốn nạn đã tàn, thì cả hai bên bờ vĩ tuyến một thời mà anh em, cha con, họ hàng ruột thịt và nghĩa đồng bào thi nhau bóp cò cho nòng súng khạc đạn vào mỗi khi màn đêm buông xuống. Bây giờ, con người cho dù có nung nấu, phun mửa lòng hận thù tới đâu đi chăng nữa cũng chẳng giải quyết được gì. Một ngày nào đó xã hội Việt Nam cho dù có thay đổi ra sao thì thiết nghĩ không một chính phủ đương hành nào lại có thể ngu ngốc cho phép con người tiếp tục lao vào con đường nồi da xáo thịt. Quốc tế, Liên Hiệp Quốc, lương tâm nhân loại  thời đại văn minh nào lại cho phép chúng ta làm điều đó, phải không vậy hả? 

Tôi nói, những người Việt Nam, nhất là những người Việt Nam theo đạo Thiên Chúa giáo Vatican La Mã, điều tốt nhất là quý vị hãy nên xác định vị trí đứng của mình cho rõ ngay trong huyết quản về một trong hai điều là giữa con dân Việt Nam với "thần dân của thành Rome" trước khi quý vị có thể hung hăng mắng nhiếc về bất cứ nhà sư Phật giáo Việt Nam nào, một đồng bào Việt Nam nào đã sinh ra và trưởng thành trên xứ mẹ đã từng hệ lụy trong hai cuộc chiến tranh trong thời cận đại là: Quân viễn chinh thực dân xâm lăng Pháp và cuộc chiến tranh tương tàn về hai chủ nghĩa Quốc, Cộng mà kẻ cầm cân điều hành là những bàn tay, những cái vòi sút tu bạch tuộc tài phiệt và siêu cường quốc tế gây nên, trong đó có Vatican La Mã. 

Chính tôi đã từng cảm động với nỗi bùi ngùi nhắc lại qua những lời nhạc của một nhạc sĩ nào đó: 

"Hằng đêm quê hương đạn bay súng nổ". Không một ai, không một tuổi trẻ nào có thể không ước mơ khung cảnh thanh bình lên quê hương, và cương quyết phản đối, chống lại hiểm họa nồi da xáo thịt vì lý do gì đó mà nó có thể phải bị lập lại. 

Vào một dạo nào đó trong các đạo binh mà con người hùng hổ lao vào con đường chém giết, ở đấy, cả hai bên thì phía nào cũng có một vị Linh mục cầu nguyện cho đạo quân của phe mình bình an cho đến khi ca khúc khải hoàn thắng trận. Hoàn cảnh oái oăm nghiệt ngã và trái khoáy như vậy, người ta không thể biết được là Chúa sẽ đang đứng về phía nào? Nếu Chúa đứng ở hai bên thì con người sao lại có thể chém giết được? Còn bằng như Chúa mà thiên vị thì làm sao có thể nói được là "Thiên Chúa công bằng", "Thiên Chúa lòng lành vô cùng"?

Hy vọng những "thần dân của thành Rome" có gốc cội cha ông của họ là dòng dõi Việt Nam sớm quay về với chính quê hương dân tộc và nghĩa đồng bào (một bọc) để khả dĩ vơi đi bớt lòng thù hận vô lý mà xem ra đa phần người ta chỉ có biết vâng phục vào đấng "thánh cha" "bề trên" ngồi đâu một góc nhỏ bên khung trời nước Ý. Tôi nói như thế không phải là vô căn, khi mà, trước đây Linh mục Hoàng Quỳnh đã từng khẳng khái: "Thà mất nước chứ không thà (để cho) mất Chúa". "Hồn thiêng sông núi" xứ Việt thường được phô diễn trên vành môi, qua lỗ miệng lúc bấy giờ mang để ở đâu mà có thể ăn nói kỳ lạ vậy?


Trần Quang Diệu

------------------------------------
1) Nguyễn Khánh chỉnh lý bắt nhốt một số tướng lãnh làm đảo chánh lật đổ ông Diệm (để rồi sau này liên lạc với MTGPMN như anh em ông Ngô Đình Diệm trước đó đã làm) như đã nêu trong bài. Còn mấy ông này cũng vậy thôi: Ông Thiệu thì Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Thuỷ Quân Lục Chiến bao vây tấn công Thành Cộng Hòa và Dinh Gia Long. Ông Nguyễn Cao Kỳ thì nắm đơn vị Không Quân, chiến đấu cơ cho quân đảo chánh. Ông Nguyễn Hữu Có thì ra lệnh lính của Sư Đoàn 7 kéo hết tàu bè từ phía Bến Tre sang bên Mỹ Tho, làm cho lính sư đoàn 9 của Huỳnh Văn Cao và Đại Tá Bùi Dinh đùn ở Bến Tre, không qua sông để về Sài gòn cứu giá cho chúa Ngô Đình Diệm được.

2) Vậy mà ngày nay cỏ kẻ chỉ nghe lóm cho nên họ mới tố cáo bậy là mấy ông thầy Ấn Quang chiếm Việt Nam Quốc Tự. Rồi đặt đĩa máu lên trên bàn để đe dọa Thầy Tâm Châu. Phải chăng đĩa máu ấy là do những bàn tay du côn, lông lá đã ném đá giấy tay, giở thủ đoạn gây nghi ngờ cho nội bộ Phật giáo mà chính Thầy Tâm Châu cũng không ngờ để mới có thể viết đại vào "Bạch Thư" gì đó rồi đám dư đảng Cần Lao mới khoái mà chụp lấy để rêu rao bêu rếu? Tại sao ông Nhu đã cho có đến 200 Mật Vụ cạo đầu làm sư (theo Quốc Tuệ trong sách Phật giáo Tranh Đấu 1963) để len lỏi phá hoại nội bộ Phật giáo được mà một đĩa máu với một con dao mà bọn ma mãnh chính trị không có thể làm được?

3) Vị cựu Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH đều có can dự chức vụ tương tự trong hai thời kỳ Đệ Nhất và Đệ Nhị VNCH, Trung Tướng Trần Văn Đôn cho ra đời Hồi Ký của ông năm 1989 trong lúc mà gần như hầu hết những nhân vật trọng yếu mà tập Hồi Ký đề cập đều còn sống và đang có mặt ở hải ngoại, nhất là tại Hoa Kỳ. Chúng ta cũng không thấy ai phản ứng gì đáng kể về những nội dung mà "Việt Nam Nhân Chứng" của ông Trần Văn Đôn ghi xuống. Do đó, mức độ khả tín phải nói là rất cao.

Tại sao người Nhật mê đọc sách ?

Tại sao người Nhật mê đọc sách ?1

Nguyễn Xuân Xanh2
 
Không có thú vui nào trên thế giới có thể so sánh được với thú vui đọc sách. Khi người ta cảm nhận được sự đàm thoại riêng tư với thế giới người hiền, thì đó là thú vui duy nhất không lệ thuộc vào người khác..
Kaibara Ekken (1630-1714)
Chúng ta có thể nhân bản hơn bằng cách trở thành hoàn vũ hơn.
Okakura Tenshin (1862-1913)

Tóm tắt
Những lý do nào khiến dân tộc Nhật đã có một văn hoá đọccó thể nói vào bậc nhất thế giới? Văn hoá đọc này không phải chỉ bỗng dưng bùng nổ vào thời Minh TrịDuy Tân 1868 khi đất nướcđược mở cửa,hướng vềphương Tây, mà có gốc rễ sâu xa từ thời Tokugawa 1600-1868, từ lúc dân tộc chỉ có văn hoá võ sĩ trên chiến trường,từ lúc thầy tu khoẻmạnh cũng muốn ra trận để thi thố tài năng đi tìm hạnh phúc. Cách đây 300 năm Nhật Bản đã có những con số "khủng"về giáo dục và văn hoá đọc. Những lý do nào khiến cho một dân tộc võ sĩ lại trở thành mê đọc sách như thế?Và đọc sách đểlàm gì? Tại sao không phải các dân tộc có truyền thốngvăn sâu đậm như Trung Hoa hay Việt Nam mà lại một dân tộc có truyền thốngvõ như Nhật Bản? Hai trăm sáu mươi năm tự đóng kín cửa như "hến" sau khi đuổi hết người truyền giáo phương Tây khỏi nước(cùng thời với Việt Nam), nhưng tại sao mảnh đất Nhật Bản lại"ngậm" được viên ngọc 'Tây học'(Western learning, thông qua 'Lan học',Rangaku)hình thành bên trong, từchất "nọc độc của người man di", đểrồi viên ngọc khai minh đó biến thành quốc sách thời Minh Trị?Một sự lặp lại kỳ thú của lịch sử: châu Âu đã từng có cuộcdịch thuật vĩ đạithế kỷ 11 và 12 lúcđại học châu Âu ra đời đểlàm nền tảng phát triển khoa học và văn hoá, thì tương tự,ở phương Đông, Nhật Bản cũng đã có cuộc dịch thuật vĩ đại của mình trong hai thế kỷthời đóng cửa, giúp chuyểnhệ hình tư duykiểu phong kiến Trung Hoa sang hệhình khoa học hiện đại phương Tây dù tầng lớp trí thức ở Nhật Bản chịu ảnh hưởng rất sâu đậm của Khổng giáo, có thể sâu đậm hơn cả giới trí thức Việt Nam cùng thời. Cuộc dịch thuật là khó nhọc và không kém phần nguy hiểm, nhưng trí thức Nhật Bảnđã thể hiện tinh thần trách nhiệm cao cả của mình đối với quốc gia, rằng họ không thể yêu nước trong sự vô minh.Đọc sách là việc làm của lòng yêu nước, không phải chỉ để thưởng ngoạn, mà đểkhai minh và khai sinh một thời đại mới cho đất nước.Đọc sách là thuộc tính của một dân tộc văn hoá có ý thức. Họ không sợ học của kẻ thù, chỉ sợngu muội vì không học. Và họ đã thành công.

Người ta đã từng nghe nói vềsự đọc sách khủngcủa người Nhật thời Minh TrịDuy Tân, cách chúng ta hôm nay ngót một thếkỷrưỡi. Thí dụminh hoạthường là quyển sách Bàn vềTựdo, On Liberty, của John Stuart Mill. Sách được xuất bảnởAnh năm 1859, cùng năm với tác phẩm"Thuyết tiến hoá" của Charles Darwin. Bàn vềTựdolà một quyển sách rất có ảnh hưởngởphương Tây, và ngày nay vẫn còn tiếp tụcđượcđọc. Khi được dịch sang tiếng Nhật quyển sách đã bán trên triệu bản.

Một quyển sách khác, có lẽít được biết hơn đối vớiđộc giảViệt Nam, là Tựlo, Self-Help của Samuel Smiles. Quyển sách này là best-seller ởphương Tây, đến cuối thếkỷ19 bán được sốlượng 250.000 ởAnh Mỹ,nhưng khi được Nakamura Masanao, một học giảKhổng giáo từng học bên Anh, dịch sang tiếng Nhật những năm đầu của thời Minh Trịthì quyển sách bán đến một triệu bản! (Nakamura cũng là người dịch quyểnBàn vềTựdo) Một con sốthật"khủng"nếu ta biết rằng thờiđó dân sốNhật Bản chỉkhoảng trên 30 triệu thôi. Self-Helplà một trong ba quyển sách được gọi là "Bộkinh thánh Minh Trị"có sức hút mãnh liệtđối với người Nhật, nhất là giới trẻ,trong giai đoạnđất nướcđổi mới của Nhật Bản. Cuốn sách Tựlothểhiện tinh thầnđộc lập tựchủcủa các cá nhân, và từ đó làm cho quốc gia độc lập và tựchủ.Cuốn sách mượn lời của J.S. Mill ngay trang đầu:"Giá trịcủa nhà nước, xét lâu dài, là giá trịcủa các cá nhân cấu thành."Đó là tín hiệu mà quyển sách muốn truyềnđạt: Muốn có mộtđất nước mạnh,độc lập, phải có những cá nhân mạnh và độc lập, thông qua tựrèn luyện, tựlo. Đó làđiều kiện tiên quyết.

Nói chung vào thời mởcửa Minh TrịDuy Tân, dân tộc Nhật lên cơn sốtđọc sách nước ngoài đểbiết phương Tây đã làm gì vàđang làm gì mà "nước giàu quân mạnh"như thế.Họmuốn biết và muốn học,đểxây dựngđất nước hùng mạnh như các cường quốc phương Tây. Chỉcó được một nền văn hoá lớn, một xã hội phú cường, khi nào mọi ngườiđược học như nhau, khi mọi người có quyền ao ước và có điều kiện vươn lên khỏi chức phận cũ của mình. Tinh thần này, ethos,được diễn tảmạnh mẽtrong tác phẩm"Khuyến học",Gakumon no susume, của nhà khai minh Fukuzawa Yukichi (1835-1901): "Con người không sinh ra cao quý hay thấp hèn, giàu sang hay nghèo khó. Chính những ai lao động siêng năng ởnhững công việc tìm tòi của họ,và học nhiều, sẽtrởthành cao quý và giàu có, trong khi những ai biếng nhác sẽtrởthành nghèo khó, thấp hèn."
Hai sựkiện sau đây ởthếkỷ20 minh hoạthêm óc tò mò học hỏiđặc biệt của người Nhật,điều mà các nhà truyền giáo phương Tây đã ghi nhận khi tiếp xúc với những dân tộc này, so sánh với các dân Trung Hoa hay Hàn Quốc mà họbiết trướcđó. Năm 1922 khi Einstein thực hiện lời mời sang thăm và diễn thuyết khoa học tại Nhật thì nước Nhật vừa có ngay một tuyển tập Einstein gồm bốn quyển. Lúc đó không đâu ởchâu Âu hay ởMỹcó tuyển tập này. Tương tự,ba năm trướcđó, 1919, Nhật Bản cũng là nướcđầu tiên xuất bản tuyển tậpCác Mác, Ăng-Ghen. Cũng không đâu trên thếgiới, kểcảNga, Đức là những nơi có phong trào xã hội chủnghĩa mạnh nhất thếgiới có tuyển tập này. Người Nhật quảmuốn biết hết những nghĩ gì thếgiới trướcđó.

Công ty ra đời đầu tiênthời Minh Trị Duy Tân kinh doanh gì? Được sách sử ghi lại, đó là công ty nhập khẩu và kinh doanh sách Maruzencủa Hayashi Yuteki. Năm 1869 ông Hayashi Yuteki mở công ty đầu tiên tại Yokohama có tên Maruya, và năm sau mở thêm cửa hàng thứ hai tại Nihonbashi, khu phốcổ trung tâm sầm uất và thời trang nhất của Tokyo lúc bấy giờ! Năm 1880 Hayashi chuyển doanh nghiệp chính thức thành công ty TNHH Maruzen. Sách là mặt hàng đi đầu trong "cuộc chấn hưng dân khí".Phần lớn các học giả và nhà văn đều là khách hàng của Maruzen, trong đó có hai nhà văn lớn Akutagawa Ryunosuke và Natsume Sōseki. Hayashi Yuteki vốn là một thầy thuốc hành nghề rồi sauđó trở thành học trò của nhà khai minh Fukuzawa Yukichi. Ngoài các hiệu sách, Maruzen còn xuất bản một nguyệt san cho giới văn sĩ, học thuật có tên "Ánh sáng của Khoa học",Gakutō.Một thời gian dài Maruzen là cửa sổduy nhất nhìn ra phương Tây. [Công ty sách này ngày nay vẫn còn tồn tại, hoạt động rộng rãi, có doanh số năm 1996 hơn một tỉ Euro với 2.100 nhân viên. Khách hàng của họlà nhiều đại học, cơ quan chính quyền và viện nghiên cứu.]

Chúng ta tựhỏi vì đâu mà người Nhật lại có cái đam mê đọc sách cuồng nhiệt và sự đánh giá cao sách vởnhư thế?Có phải dân tộc này chỉmê đọc sách thời Minh Trịkhi bừng tỉnh sau 'cơn ngủ đông' mấy trăm năm trướcđó không? Dân tộc Trung Hoa cũng từng ngủ đông dài như thế,và một sốdân tộc khác cùng dòng văn hoá Khổng Mạnh, nhưng tại sao không có cái đam mê đọc sách như dân Nhật?

Một truyền thống lâu đời

Thực ra người Nhậtđã có truyền thốngđọc sách khủnglâuđời, ít ra từthời Tokugawa 1600-1686. Trong thờiđầu của Tokugawa Ieyasu, người thống nhấtđất nước và lập nên triềuđại Tokugawa hoà bình 265 năm lâu dài nhất lịch sử,thì chuyện một samurai có thểdiễnđạtđược ý tưởng của mình một cách mạch lạc trên giấy trắng mựcđen là điềuhi hữu, và tình trạng mù chữlà bình thường. Văn hoá Nhật Bản trước 1600 là văn hoá võ sĩ. Nhưng vào cuối thếkỷ18, có thểnói một samurai mù chữlà mộtđiều hụt hẫngđáng buồn, và tới giữa thếkỷ19, tình hình lại khác nhau một trời một vực.

Trong thờiGenroku(1688-1704),được xem là thời vàng son của Tokugawa với kinh tế ổnđịnh, nghệthuật và văn chương phát triển, Nhật Bảnđã có một hệthống xuất bản sách hiệnđạiđáng ngạc nhiên, đặc trưng bởi sựhiện hữu của nhiều nhà xuất bản lớn, nhiều nhà minh hoạsách có tiếng và nhiều nhà văn tên tuổi. Sách thườngđược xuất bản với sốlượngđến hơn 10.000 bản!Đây là một con số"khủng"thờiđó; Nhật Bản lúc đó chỉcó chừng 20 triệu người, vì thời Minh Trịdân sốNhật Bản khoảng 30 triệu. Năm 1692 Nhật Bản cũng đã từng có những bộdanh mục hàng chục tập vềcác sách in dành cho công chúng sửdụng. (Hiện nay VN chưa có được những bộdanh mục như thếtại các nhà sách).

Con sốphát hành 10.000 bản là rấtđáng ghen tịcho những nhà xuất bản và tác giảViệt Nam hiện nay, đất nước với gần 90 triệu dân. Trong gần mười năm qua từkhi loại sách khai trí bắtđầu xuất hiện, có mấy tác giảnào có số ấn bản tương đương như thế?Cho nên số ấn bản 10.000 của người Nhật thời Tokugawa cách đây 300 nămquảlà con số"khủng"! [Việt Nam lúc bấy giờ đang trong giai đoạn Trịnh Nguyễn phân tranh, không hiểu giáo dục và văn hoá đọc sách ra sao.]

Thương mại sách ởNhật bắtđầu phát triển mạnh từ đầu thếkỷ17. Giớiđọc sách truyền thống như quý tộc, tu sĩ và thượng lưu trong thành phố được mởrộng sang các giớiđại chúng. Mặc dù sốlượng phát hành cao, nhưng không đủ đáp ứng nhu cầuđọc sách của các tầng lớp dân chúng, văn hoá đọc sách thuê, ra đời trong thời Kan'ei (1624-44), trởnên phổbiến,đặc biệt tại các thành phốlớn như Edo, Kyoto và Nagoya. Các cửa hàng cho thuê sách, kashihonya,đóng vai trò quan trọngở đây. Cuối thếkỷ18 các cửa hàng cho thuê sách có mặt khắp nơi ởEdo (tức Tokyo) và các tỉnh. Khách hàng được phục vụbởi những ngườiđi rong mang thùng sách trên lưng. Sách vởcó thể đi đến tận các hảiđảo xa xôi. Edo có 650 cửa hàng cho mượn sách năm 1808, nhưng đến 1832 đã có tới 800. Edo có dân sốkhoảng hơn triệu, và tỉlệbiết chữlên đến 70%.Một cửa hàng cho mượn sách ởNagoya, tên Daisōcủa Sōhachi, như lịch sửcòn ghi, được thành lập năm 1767 và hoạtđộng 132 năm liền,đến khi chấm dứt hoạtđộng có một danh mụcđến 26.768 quyển sách cho mượn.

Nhật Bản thếkỷ18 có những thành phốlớn phát triển với dân sốtập trung cao như châu Âu. Edo có trên một triệu dân, nhất thếgiới, hơn cảParis. Các thành phốkhác như Osaka có con sốnon một triệu. Nhật Bản có văn hoá thành thị,có cảvăn hoá salon (zashiki),đời sống sung túc rõ nét như ởchâu Âu thời Trung cổ.Và đó cũng là điểm hấp dẫnđối với giới thương nhân nước ngoài khi họkêu gọi Nhật Bản mởcửa. [Việt Nam lúc đó chưa được như thếvềmặt phát triển kinh tế.]

Chúng ta hỏi:Từ đâu người Nhật có sự đam mê đọc sách như thế?Động lực nào?

Nguồn gốcđọc sách:
vănđi trước

Sựhọc tại Nhật Bản trước 1600 là độc quyền của giới quý tộc và tăng lữ,nhưng đến thời Tokugawa trởthành công việc của cảnước. Năm 1615 tướng quân Tokugawa Ieyasu, sau khi đã bình địnhđược gần ba trăm phiên trấn (han), thiết lập nên một thểchếchính trịgần như liên bang, phát đi mệnh lệnh như một'big bang' cho các đại danh, daimyō,chủphiên trấn và các võ sĩ, samurai:Điều 1của mệnh lệnh nói: "bunbên tay trái, bubên tay phải".Bunlà văn, sựhọc, là cây bút, trong khi bulà võ, nghệthuật chiến tranh, từ đó chữbushilà võ sĩ, bushidolà võ sĩ đạo. Như thế Điều 1 nói "quyển sách bên tay trái, thanh gươm bên tay phải",và văn đi trước võ, đểcó thểtrịnước lâu bền. Các võ sĩ Nhật dần dần trởthành giai cấp cầm quyềncó học.ỞNhật Bản, cầm quyền là việc của giai cấp của samurai, cha truyền con nối, không phải việc của các Khổng nho như ởTrung Hoa hay Việt Nam, Triều Tiên. Khổng nho cao lắm chỉ được làm tư vấn vớiđồng lương thấp. Nhật Bản cũng có xếp hạng"sĩ, nông, công, thương" (shi, nō, kō, shō)dướiảnh hưởng của Khống giáo Trung Hoa, nhưng ở đây không phải là nho sĩ, mà là võ sĩ.

Cácdaimyōgiờ đây phải học văn hoá, các loại khoa học và nghệthuật quản lý đất nước.Một daimyō có học phảiđọc sách hằng ngày.Đểphục vụcho việc học tập của daimyō, và các gia thần, thư việnđược thành lập, sách vở được sưu tầm một cách qui mô, và trởthành biểu tượng cho tri thức. Thư viện bao gồm các loại sách vềlịch sửNhật Bản và Trung Hoa, các sách vềKhổng giáo, Phật giáo và Thần giáo; sách vềnghệthuật quân sự,chiến lược quân sự,địa lý, thiên văn, kinh tế,toán học, y khoa và vô sốsách vềvăn chương cổ điển. Bản thân tướng quân Ieyasu từng lập thư viện cho mình. Nhật Bản mỗi thờiđều có những thư viện nổi tiếng, nhưng vào thời Tokugawa, Nhật Bản có nhiều thư viện nhất chưa bao giờthấy trướcđó. Fukuzawa Yukichi (1835-1901) đã ghi lại trong "Tây dương sựtình"sựquan sát đặc biệt của ông vềcác thư viện phương Tây khi ông có dịpđi tham quan:

Trong những thành phốlớn của phương Tây đều có các sưu tập sách được gọi là "thư viện",ở đó tất cả được sưu tầm, từsách cho nhu cầu hàng ngày đến những loại sách hiếm, và sách trong nước cũng như từnước ngoài. Người dân đến và có thể đọc quyển sách mình muốn, dù không phải là mỗi ngày. Thư viện Anh có 800.000 quyển, của St. Peterburg 900.000, và của Paris 1,5 triệu. Người Pháp nói rằng, nếuđem tất cảsách xếp nốiđuôi nhau, chúng ta sẽcó một chiều dài 7 dặm.

Tướng quân Tokugawa Ieyasu, người tạo cú hích cho "big bang" văn hoá đọc sách của Nhật Bản.
(Nguồn: Wikipedia)

Phát triển giáo dục

Văn hoá đọc sách gắn liền với giáo dục. Tokugawa là thời kỳcủa sựbùng nổgiáo dục, hệthống trường học, phục vụcho nhiềuđối tượng, nhiềuđẳng cấp, trường trung ương của shogun, trường phiên của các daimyō, trường tư, cho dân thường và trường hỗn hợp cho cảsamurai và dân thường. Vài con sốdướiđây sẽlàm chúng ta thêm ngạc nhiên đểthấy mối tương quan giữa văn hoá đọc và giáo dục.

Ngoài những trường chính thống dành cho giai cấp samurai của Mạc phủ,như "Hàn lâm Khổng giáo", Shōheikō,thành lập năm 1630, và trường của các phiên, còn có các loại trường như trườngterakoyacho thường dân; trườnggōgakudành cho cảcon em samurai lẫn thường dân học chung, được chính thức hỗtrợtừnhà nước, báo trước loại giáo dục hiệnđạiphiđẳng cấpsẽra đời thời MinhTrị.Ngoài ra có loại trường tư thục,shijuku, privat academies, với khoảng 1.500 trường, từqui mô nhỏvài ba chụcđến qui mô lớn cảngàn sinh viên, cạnh tranh với các trường trung ương hay trường phiên, dành cho cảsamurai và thường dân mọi tầng lớp.

Tại phiên Chōshū, một trong những phiên quan trọng trong việc lậtđổMạc phủ đểphục hồi thiên hoàng, nhiều samurai nổi loạn và trởthành lãnh đạo của chính phủMinh Trị đã từng là học trò của nhà yêu nước Yoshida Shōin (1830-1859) tại trường tư thục do ông thành lập.Shijukuthường phục vụcho giáo dục cao cấp (advancededucation),đi vào nghiên cứu, là trường của những người muốn tiến thân vào học thuật.Đó là loại trường"vườnươm nhân tài", bất kểtừ đâu đến, samurai hay thương gia, thầy tu, tạo nguồn nhân lực quốc gia, jinzai(human resource), điều cũng được các giới chính quyền trung ương và địa phương ủng hộ. Theo tinh thần củajinzai, việc tuyển mộnhân sự được dựa trên cơ sởtài năng hơn là nguồn gốc thân thế,và tài năng có thể đi từphiên này sang phiên khác sống. Ngoài ra còn các trường dạy nghềvà trường tôn giáo.

Một trường terakoya (Nguồn: Wikipedia)

Năm 1868 khi Nhật Bản Minh Trịbắtđầu cuộc duy tân, cảnướcđã có 17.000 trườngđủmọi loại!Đây cũng là một con số'khủng'nữa. Hàng triệu ngườiđã được học hành. [Việt Nam có được bao nhiêu trường học và học sinh lúc đó? Nam Kỳlúc đó vừa trởthành thuộcđịa Pháp.] Có mộtước tính theo đó cuối thời Tokugawa Nhật Bản có khoảng trên 40 phần trăm con trai và 10 phần trăm con gái nhậnđược giáo dục ngoài gia đình. Nhà nước không sợsựphát triển giáo dục trong nhân dân, và dân chúng cũngđồng tình đểcải thiện vịtrí xã hội của mình. Phát triểnđất nước cần những người có học."Việcđầu tiên cần thiết cho sựtrịvì một nhà nước là năng lực con người. Mà năng lực con người thì đến từsựhọc"như học giảKhống giáo Dazai Jun(1686-1747) viết.

Qui mô
của trường Nhật cũng không kém phần ngạc nhiên. TrườngShōheikōđược xây dựng lại năm 1799 thực tếkhông phải là một ngôi trường, mà là mộtcampusto lớn, nhiều dãy nhà ngang dọc, nhiềuđường phốtrong đó, với mộtđền thờKhổng tửlớn tại trung tâm, nó là một cái làng học thuật và đào tạođúng hơn là một cái trườngđơn giản theo quan niệm của chúng ta. TrườngNisshinkantuy có thểnhỏhơn nhưng cũng rất lớn. Chúng ta biết rằng tại Hoa Kỳ,các đại học dạng campus hình thành chủyếu từLuật giao đất Morrillnăm 1862 trước khi cuộc nội chiến chấm dứt. Phải chăng, xét vềqui mô, các trường của Nhật Bản thời Tokugawa đã đi trướccác đại học campus của Mỹgần cảtrăm năm?

Nước Nhật bước vào hiệnđại hoá không phải từtro tàn của chế độcũ, mà ngược lại,được xây dựng trên một nền móng văn hoá đã phát triển cao, đa dạng vềnội dung học, và vững chắc. Năm 1872 (cũng là năm sinh của cụPhan Châu Trinh), tứcchỉbốn năm saukhi vua Minh Trị được phục hồi, một chế độgiáo dục cưỡng bách toàn dân được thực hiện trên khắp nước Nhật, một kỳcông. Điều này sẽkhó có thể được nếu Nhật Bản Tokugawa không có gì cả.Năm 1900 Nhật Bản có tỉlệngười biết chữcao hơn tỉlệcủa Anh. Đó là một môi trường văn hoá tốt và thiết yếu cho sựphát triển mạnh của khoa học và kỹthuật.

Nếuđầu thời kỳTokugawalưỡi gươmlà quan trọng, thì vào cuối thời Tokugawa thì quyển sáchlà quan trọng hơn.

Trước áp lực của nguy cơ nước ngoài sựhọc cổ điển dần dầnđược hiệnđại hoá bằng các môn học phương Tây. Các môn tri thức quân sự,luyện kim, vẽbảnđồ,y khoa, hoá học…,cũng như các môn học vềcác thểchếchính trị,kinh tếcác quốc gia phương Tây có sức hút mạnh mẽ.Các daimyō biết nhìn xa gửi sinh viên tài năng đi học tại Nagasaki hay tại những trường Lan học tại Edo và Osaka. Và trong những năm 1850, 1860 họthành lập các trung tâm Tây học tại các phiên của họ.Các nhà lãnh đạo của Minh TrịDuy Tân như Saigō của phiên Satsuma, Kido, Itō và Inoue của Chōshū, Soejima và Okuma của Saga, Gotō, Sakamoto và Sasaki của Tosa, Yuri của Fuki, Mutsu và Katsu của Mạc phủ,tất cả đềuđã một lần học tại Nagasaki, trung tâm Lan học hiệnđại của cả đất nước.

Sựphát triển giáo dục thời Tokugawa gắn liền với sựphát triển văn hoá Edo. Edo là thời kỳcủa nghệthuật và học thuật. Tokugawa chọn con đườngđóng kín không phảiđểsuy tàn, mà ngược lại,đểphát triển bản sắc Nhật Bản không bịphá rầy,đưa sức sống của dân tộc lên đỉnh cao văn hoá và nghệthuật, vun xớiđạođức và bản sắc.Đó là thời kỳcủa sựtựtôi luyện, sựquyết tâm tựkhẳngđịnh mình, biếnđổi miếngđất hoang sơ thành một vườn hoa sặc sỡ,phát triển các hình thái nghệthuật lên cao nhất,đểbản sắc Nhật Bản trởthành nền tảng không lung lay được trong thời mởcửa xáo trộn sau, đểtài năng Nhật Bảnđược tinh luyện làm niềm tin của dân tộc. Khi mởcửa, nghệthuật Nhật Bảnđã chinh phụcđược các quốc gia phương Tây và quốc gia được nểphục.

Tấm bình phong sơn mài hoa Iris của Ogata Kōrin (1658-1716), bậc thầy tiên phong về hội hoạ thời Edo, là thờiđại hưng thịnh của nghệ thuật,để lại dấu ấn mãi mãi trong lịch sửNhật Bản. Otaga Kōrin là tấm gương lớn của những người trường phái ấn tượngđầu tiên của Pháp. Các cuộc triển lãm tranh nghệ thuật của nghệ sĩ Nhật Bản nửa cuối thế kỷ 19 trong thời mở cửa tại châu Âu cũng như tại Hoa Kỳ đã mang đến cho Nhật Bản một sựcông nhận lớn trong lãnh vực nghệ thuật. Không phải chỉcó phương Tây chiếm lĩnh Nhật Bản qua các hiệp định thương mại, mà Nhật Bản đã chiếm lĩnh sân khấu nghệ thuật phương Tây qua nghệ thuật. Van Gogh cũng chịu ảnh hưởng của hội hoạ Nhật Bản. Nhiều người Mỹ thừa nhận tính ưu việt của nghệ thuật Nhật Bản. Một làn sóng lớn, "tsunami", du lịch từ phương Tây, nhất là từHoa Kỳ đã đổ sang Nhật Bản vì sựngưỡng mộ dân tộc đặc biệt này. Người Nhật cảm thấy tự tin khi bước vào sân chơi của cộng đồng các cường quốc. (Ảnh: nguồn Wikipedia)

Lan học,cuộc dịch thuật vĩ đại

Còn một sự kiện 'khủng' khác cần được nói lên ở đây.Đó là cuộc dịch thuật vĩ đạihai thế kỷ của giới trí thức Nhật Bản trong thời Tokugawa tự đóng cửa. Sáu năm sau khi Copernicus qua đời (1543) và tác phẩm cách mạng Vềchuyển động quay của các thiên thểxuất bản, Nhật Bản tiếp xúc với những người phương Tây đầu tiên. Nhưng năm mươi năm sau, Nhật Bản, như chúng ta biết, chọn con đườngđóng kín cửa, "toả quốc",sokoku, từ 1640 (Việt Nam từ 1630), khi thấy sựphát triển của Kitô giáo là nguy hiểm cho tinh thần dân tộc và cho quyền lực. Nhật Bản chỉ chừa một cửa thông thương duy nhất với Hà Lan tại Dejima, Nagasaki. Sự đóng kín này kéo dài cho đến hết thời Tokugawa năm 1868. Vậy mà trong điều kiện đó, đây là điều Việt Nam không có, trí thức Nhật Bản đã làm một cuộc dịch thuật vĩ đại sách vở phương Tây. Tuy không quyển sách nào thoát khỏi bàn tay kiểm duyệt nghiêm ngặt của Mạc phủ, tuy giới học giảphải làm việc trong điều kiện khó khăn, đôi khi phải trả giá bằng tính mệnh, nhưng họ đã làm nên một cuộc dịch thuật vĩ đạitừ cái được gọi là Lan học,rangaku, Dutch learning ("Lan"là gọi tắt của Hà Lan), bắt cầu cho khai trí, khoa học, kỹthuật để Minh Trị Duy Tân bước tới mạnh mẽ.


Siguta Gempaku, người tạo cú hích mạnh mẽ
cho Lan học (Nguồn: Wikipedia)

Trí thức Nhật, nhất là giới bác sĩ, đặc biệt chú ý đến khoa học kỹthuật từchâu Âu qua các tác phẩm dịch từtiếng Hà Lan. Họnhìn thấy trong đó một nền văn minh mới xuất hiện, và ý thức rằng, nếu một ngàn năm trước Nhật Bảnđã từng gửi học giảvà tăng lữsang Trung Hoa đểhọc văn hoá, thì nay, họcũng đang đứng trước một nền văn minh mớiđồsộcần phải học hỏi, và họphải tựhọc trong sựdè chừng của Mạc phủ.Qua Lan học- hay Tây học qua tiếng Hà Lan - người Nhật học hầu như tất cảcác môn khoa học và công nghệphương Tây: y khoa, sinh học, thiên văn, toán học, vật lý, hoá học,điện, cơ học, máy bơm, đồng hồ,máy hơi nước, kính thiên văn, kính hiển vi, luyện kim, đúc súng, đóng tàu…Họthường xuyên theo dõi sựtiến bộkhoa học công nghệchâu Âu. Các thương nhân Hà Lan ngay từ đầuđược Mạc phủyêu cầu hàng năm viết báo cáo (fūsetsugaki) cho chính phủtướng quân vềtình hình thếgiới, và vềcuộc cách mạng công nghệvà khoa họcởchâu Âu.

Từthếkỷ18, tức khoảng một thếkỷsau tác phẩmPrincipiacủa Newton, các học giả Lan họcđã nắm bắtđược vật lý Newton, họ đã dịchđược các khái niệm như "trọng lực"(jūryoku),"lực hút" (inryoku),"lực ly tâm" (enshinryoku),"khối tâm" (jūten,centre of mass) vẫn còn được sửdụng ngày nay. Các học giảLan họcđã hiểu các hiện tượngđiện, tĩnh điện, hiểu nguyên lý ắc-quy của Volta đầu thếkỷ19, chỉmấy năm sau khi Volta phát minh ởchâu Âu. Họhiểu hoá học của Lavoisier, có thểchếtạo kính thiên văn không lâu sau Hans Lippershey và Galilei đầu thếkỷ17; chếtạođồng hồ,máy bơm, súng hơi, chếtạo những con búp bê cơ khí tự động phục vụtrà. Đặc biệt máy hơi nướcđược Nhật Bản chếtạo lầnđầu tiên năm 1853. Người Nhậtđã đóng được tàu chiến chạy hơi nước chỉhai năm sau cuộc gặp gỡlịch sửvới Commodore Perry 1853. Tất cảcũng chỉdựa trên bản vẽ.Một quan chức Hà Lan bình luận rằng"Tuy có những sựkhông hoàn chỉnh vềchi tiết, nhưng tôi phải ngã mũ trước dân tộc thiên tài có khảnăng chếtạo những thứnày mà họkhông hềthấy một chiếc máy thực ngoài đời, chỉdựa trên các bản vẽ đơn thuần."

Cuộc dịch thuật diễn ra trong hai thếkỷvới hàng ngàn cuốn sách được xuất bản và truyền bá trong giới học thuật, làm cho người ta nhớ đếncuộc dịch thuật vĩ đạivăn minh Hy Lạp cổ đại và Ảrập vào châu Âu hai thếkỷ11 và 12 đúng lúc đại học châu Âu đang hình thành, làm cho đại học và khoa học châu Âu phát triển mạnh mẽ.Chỉcó khác mộtđiều: trong khi cuộc dịch thuậtởchâu Âu được phần lớn các học giả Ảrập thực hiện thì ởNhật Bản cuộc dịch thuậtđược do chính người Nhật thực hiện, những ngườiđượcđào tạo từmột nền văn hoá rất khác. Phương Đông chưa có cuộc dịch thuật nào như cuộc dịch thuật Nhật Bản phảnảnh trung thực nền khoa học kỹthuật phương Tây. (Cuộc dịch thuậtởTrung Hoa bởi các nhà truyền giáo bóp méo một phần khoa học vì mục tiêu truyền giáo, và gặp sứcỳmãnh liệt của sựtựmãn văn hoáTrung Hoa). Đây là một sựlặp lạikỳthú của lịch sửgiữa Tây và Đông. Hai trăm năm dịch thuậtởNhật Bản Tokugawa cũng là thời gian tại châu Âu diễn ra các cuộc cách mạng khoa học, công nghiệp dữdội, tạo nên sựmất cân bằng lực lượng nghiêm trọng trên thếgiới dẫn tới thay đổi lớn lao chưa từng có trong lịch sửloài người. Người Nhậtđã biết tiếp cận các cuộc cách mạngđó từxa đểchuẩn bịmình.

Người Nhật không thểyêu nước trong sựmê muội, vô minh, lại càng không yêu nước bằng những nội dung khuôn sáo không thực chất."Chúng ta cảm thấy xấu hổlàm sao khi khám phá ra sựngu dốt của mình"với tư cách là người phục vụ đại danh và đất nước, như một lời tựthú của Siguta Gempaku (1733-1817), một bác tên tuổi sĩ và là ngườiđã tạo cú hích quan trọng cho Lan học cuối thếkỷ18, sau khi ông chứng kiến rằng cấu trúc của cơ thểcon người không giống như sách vởcủa Trung Hoa hay Nhật Bản bấy lâu nay, mà giống chính xác các bản vẽcơ thểhọc của một quyển sách từphương Tây (Tafel Anatomia), sau đó được Gempaku và các đồng nghiệp dịch ngay sang tiếng Nhật, tạo cú hích mạnh mẽ cho phong trào Lan học.

Kết luận

Nói tóm lại, Nhật Bản là một dân tộc có óc tò mò không bao giờnguôi, tinh thần khao khát học hỏi cái mới mãnh liệt không bao giờtắt, và khảnăng hiểu biết nhanh chóng, đểhoàn thiện mình, đểbảo vệ đất nước,để"kiểm soát những người man di bằng tri thức của họ",và vì thếhọ đọc sách dữdội, và đã thành công dữdội. Thếkỷthứbảy và tám họ đã từng vượt biển trong hiểm nguy đểhọc văn hoá Trung Hoa đem vềxây dựng nền tảng văn hoá riêng của họ.Rồi một ngàn năm sau, cũng trong khó khăn và nguy hiểm, giới trí thứcđã tiến hành cuộc dịch thuật văn hoá phương Tây hai thếkỷliền, và từ1868 trở đi một cách bùng nổ,đểcó thểnhanh chóng hiệnđại hoá đất nước với mục tiêu trởthành ngang bằng với các cường quốc phương Tây. Đó là hai sựkiện trọngđại nhất trong lịch sửvăn hoá nước Nhật. Và họ đã thành công. Họbỏlại Trung Hoa từng là trung tâm văn hoá đối với họ,đểrồi chính Trung Hoa sau đó phải học lại họ.Nhật Bảnđã từng trởthành trung tâm văn hoá mới và niềm hy vọngởphương Đông, thay thếcho cái trung tâm Trung Hoa cũ đang rệu rã.

Nhật Bản là tấm gương "tổng hợpvăn hoá Đông Tây" của thếgiới mà không mất đi bản sắc sâu đậm của mình. Họ là một tấm gương tuyệt vời của sự tự-khai trí vươn lên. Họ đóng cửa mà không hư hỏng hay hỗn độn. Ngược lại, họ đóng cửa để phát triển các tố chất dân tộc thành tinh hoa, làm bước chuẩn bị cho giai đoạn phát triển tiếp vững chắc, không chao đảo khi mở cửa ồ ạt thời Minh Trị.Họ là một dân tộc văn hoáđáng kính phục.

Charles Darwin
nói đâu đó trong lá thưgửi cho một người bạn, rằngđối với ông Nhật Bản là mộtkỳquantrong những những kỳquan của thếgiới, nếu không muốn nói là kỳquan lớn nhất.

Chúng ta người Việt Nam nên học văn hoá đọc sách độcđáo của người Nhật, óc tò mò của họ,họcđểsáng tạo cho đất nước. Nếu chỉ học với mụcđích có được một nghề đểsống,điềuđó quý cho bản thân, gia đình, nhưng dễdẫnđến sựtựmãn làm cho người ta không đọc sách nữa khi đã đạtđược mụcđích. Với tinh thầnđó, Việt Nam chỉcó cá nhânchứkhông có quốc gia. Chỉcó đọc sách với tinh thần người Nhật là muốn hiểu biết thếgiớiđã,đang nghĩ gì, làm gì đểtái tạo tinh hoa thếgiới và sáng tạo cái mới làm giàu đất nước Việt Nam, điềuđó mới giúp cho chúng ta đọc sách mãi mãi không thôi, đọc cuồng nhiệt trong thếgiới tri thức vô tận. Và chỉtrên cơ sở đó, văn hoá đọc mới có thểthăng hoa. Không phải chỉvài ngàn, mà hàng triệu các bản sách haymới có thể đượcđọc giảhâm mộvà háo hứcđón nhận. Và cũng chỉtrên cơ sở đó, nhân dân mới nhanh chóng ấm no, đất nước mới phú cường, giang san mới bền vững.
Mùa Hội sách Thành phố,tháng Ba, 2012

Nguyễn Xuân Xanh



1Bài viết này là sự rút ngắn từ một bài nghiên cứu chi tiết hơn có cùng tựađề của tác giả vào mùa Hội sách TP 2012. Một bài tóm tắt 850 chữ được báo Tuổi Trẻ đăng dưới tiêu đề "Không thểyêu nước trong sựvô minh"
(http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/Thoi-su-suy-nghi/483903/"Khong-the-yeu-nuoc-trong-su-vo-minh".html)
2 Tác giả cám ơn TS Trương Văn Tân (Úc) đã cho nhiều ý kiến quý báu về lịch sử và thuật ngữ Hán-Nhật.

2012/03/27

LỰC LƯỢNG VIỆT NAM BÀI SỐ 7 - bài chót


LỰC LƯỢNG VIỆT NAM
                BÀI SỐ 7 - bài chót
 
NHỮNG BƯỚC CHÂN CỦA NGƯỜI LÃNH TỤ
 
Chỉ mới một năm thôi, Việt Nam và Miến Điện trên nhiều phương diện đồng hạng.
Cũng độc tài, tham nhũng, bắt giam đối lập, giới hạn mọi thứ tự do. Đất nước bên bờ vực thẳm. 40% quần chúng sống về nông nghiệp. Xa xưa lắm, 60 năm về trước, họ sống rất thoải mái, họ đã từng xuất khẩu lúa gạo nuôi cả vùng Đông Nam Á. Bây giờ họ sống bằng cách lấy tay mò cá mò tôm để lây lấy qua ngày. Không có máy móc nông nghiệp. Không dùng phân bón gì  cả. 40% ngân sách quốc gia    dành cho quân đội. Quân nhân sống rất khá, nên trung thành với chánh phủ, sẳn sàng đàn áp dân chúng không nương tay. Miến điện trở thành nước thứ nhì sau Afghanistan nghèo nhất thế giới.
Trong lúc đó người Trung quốc được tự do khai thác tài nguyên quốc gia (khí đốt, lâm sản và đá quý) và tự do thiết lập cơ sở kỹ nghệ và thương mại, dần dần nắm chặt được vận mạng kinh tế của cả nước. Người Trung Quốc hầu như độc quyền trong ngành xây cất và địa ốc. Dân thì đau khổ nhưng tướng lãnh thì phá rừng lập biệt cư, xây lâu đài xa hoa cách xa dân chúng và thủ đô.
 
Đùng một cái, giới quân phiệt Miến Điện chịu trao quyền lại cho tướng Thein Sein. Ông này chịu cởi áo nhà binh về hưu để làm Tổng Thống dân sự.
Hoàn toàn ngược lại những gì đã xẩy ra trước đó, (nào là Sư sải biểu tình bị đánh đập công khai ngoài đường, hằng ngàn người chống độc tài bị giam, đất nước bị thỉên tai, dân chết đói mà không cho ngoại quốc vào cứu trợ) bổng nhiên các tù nhân chánh trị được thả ra, các nhân vật ngoại quốc đến viếng, dân sắp đi bầu, và QUYẾT LIỆT nhất là các ký kết vĩ đại về thủy điện với người Trung quốc bị ngưng ngang.
Ai đã làm thay đổi cuộc diện?
Người đó là Bà Aung San Suu Kyi sanh năm 1945, bây giờ là 67 tuổi.
Chẳng có phép lạ gì đâu. Đây chỉ là kết quả đạt được từ một ý chí phi thường của những con người hoàn toàn vì dân, vì nước. Con đường đi không phải dễ dàng.
Cha là một Đại Tướng, đệ nhứt anh hùng dân tộc kháng chiến chống Nhựt thành công, nhưng ông bị ám sát lúc Bà Aung San Suu Kyi mới 2 tuổi.
Rồi còn phải đi học. Bà tốt nghiệp Đại học Oxford về Triết, sau đó còn có nghiên cứu uyên bác ở các đại học khác để lấy bằng Tiến Sĩ. Bà lập gia đình với một học giả người Anh chuyên về Tây-Tạng-học.
Bà trở về nước tháng Ba năm 1988 để săn sóc người mẹ bịnh và Bà kẹt lại đó luôn vì đúng lúc sinh viên Miến Điện biểu tình tại Rangoon đòi dân chủ. Năm tháng sau, đứng trước cả nửa triệu người, Bà đã đọc diễn văn kêu gọi dân chúng đứng lên tranh đấu cho dân chủ.
Ngày 24 tháng Chín, năm 1888 Liên Đoàn Đấu Tranh vì Dân Chủ Miến Điện được thành lập và Bà được bầu làm Tổng Thư Ký.
Tháng Tư năm 1989, bọn quân phiệt ra lệnh đàn áp phong trào dân chủ. Các cuộc biểu tình bị giải tán bằng súng đạn thật. Có một số người dân bị giết chết và Bà Aung San Suu Kyi bị quản thúc tại gia.
Mặc dầu bị đàn áp như vậy, từ trong nhà, Bà vẫn tiếp tục lãnh đạo đấu tranh và Liên Đoàn Đấu Tranh vì Dân Chủ Miến Điện thắng vẻ vang trong kỳ bầu cử tháng Năm, năm 1990.
Nhưng bọn quân phiệt không thừa nhận kết quả và bắt nhốt một số dân biểu đắc cử.
Năm 1991, Bà được trao giải thưởng Nobel Hòa Bình.
Trong 21 năm gần đây, Bà ở tù hết 15 năm.
Cách đây 10 năm, chồng của Bà là Tiến Sĩ Michael Aris bịnh nặng, hấp hối bên Anh quốc, nhưng Bà không thể về bên cạnh người chồng, vì nếu Bà đi ra khỏi nước thì Bà sẽ không được phép trở lại nữa.
Tháng Năm năm 2002, Bà được trả tự do. Bà tổ chức một chuyến du hành qua 95 thành phố để khích lệ sinh hoạt của Liên Đoàn Đấu Tranh Dân Chủ.
Tháng Năm năm 2003, đoàn xe của Bà bị một đám người ủng hộ chánh phủ phục kích. Súng bắn xối xả vào đoàn người của Bà. 4, 5 người thân cận đứng cạnh Bà đều bị bắn chết. Bà may mắn chạy thoát, tất cả hơn 70 người bị giết. Có tin đồn rằng chánh phủ đóng kịch thả Bà ra để tìm cách giết Bà ở bên ngoài.
Bà Aung San Suu Kyi phải trải qua bao nhiêu gian nan đó mới  tạo được cho dân tộc mình một nội lực có khả năng lay chuyển tình thế. Nội lực này hiển hiện qua hai khía cạnh.
Đối nội, Liên Đoàn Đấu Tranh vì Dân Chủ Miến Điện do Bà lãnh đạo gồm nhiều nhân vật có uy tín. Đây là một tập đoàn đông đảo có lý tưởng, có can đãm dấn thân. Khối Phật giáo nói riêng và dân chúng nói chung ngưởng mộ Bà, người ta chấp hành nghiêm túc những lời kêu gọi của Bà. Bà không bị thọt gậy bánh xe.
Đối ngoại, có giải thưởng Nobel kèm theo, Bà là một tiếng nói 'nặng ký'. Chính Bà đã kêu gọi quốc tế cấm vận Miến Điện vì đã vi phạm nhân quyền. Và quốc tế đã làm theo. Anh, Mỹ, Úc đều không giao thương với Miến Điện. Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế và Ngân Hàng Thế Giới ngưng cho vay và viện trợ. Chỉ có Pháp là có công ty dầu hỏa Total thăm dò ở Miến Điện. Đương nhiên Trung Quốc lợi dụng tình trạng này để càng giao hảo càng xiết chặt Miến Điện.
 
Ngăn chận lại không để đất nước bị Trung Quốc nuốt trỏng, thiết lập ngoại giao với thế giới văn minh, tổ chức bầu cử, mời chuyên gia quốc tế tới quan sát, nhận lại tài trợ quốc tế, đó chính là cái gì mà một lực lượng dân tộc có thể làm được cho đất nước mà không cần phải dùng đến bạo lực và hận thù.
Từ trong tâm tối tìm đường bò ra ánh sáng, biết bao nhiêu người Việt cũng ước mơ đất nước Việt Nam cũng có một cơ hội chuyển mình ngoạn mục như vậy. Có thể được không?
Tại Việt Nam, chúng ta may mắn có ba người có thể giúp chuyển hóa tình trạng bế tắc ngày nay theo chiều hướng của Miến Điện, đó là Đại Lão Hòa Thượng, Tăng Thống Thích Quảng Độ, Linh Mục Nguyễn Văn Lý và Cụ Lê Quang Liêm. Ba người này sẽ hiệp ý mời thêm các vị lãnh đạo của Cao Đài và Tinh Lành.
Nhưng con đường của LỰC LƯỢNG VIỆT NAM có rất nhiều chông gai.
Đối nội, Hòa Thượng Thích Quảng Độ không may mắn như Bà Aung San Suu Kyi có một Liên Đoàn Đấu Tranh cho Dân Chủ thuần nhất, mà lại vướng một tập thể Phật giáo phân chia  manh múng. Làm sao để những người trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhứt kiên trì và những người con Phật ngoài Giáo Hội suy nghĩ lại?
Hơn nữa, giữa sự thờ ơ và ngây thơ của quần chúng, chẳng những Việt cọng mà còn các thế lực thù địch với nội lực dân tộc lại biết rất rõ rằng 'Thầy Chùa râu quai hàm' này là một lực lượng tinh thần có khả năng thách đố bạo lực của chúng, nên chúng đã xử dụng tất cả chiêu thức vừa tinh vi vừa hèn nhác và dùng lời lẽ thô tục để tìm cách hạ uy tín.
Còn Linh Mục Nguyễn Văn Lý thì lại không hoàn toàn được tự do. Trên Ngài còn có Giám Mục, Tổng Giám Mục và Vatican. Mà đức tính quan trọng nhứt của một tín đồ Thiên Chúa Giáo là sự Vâng lời.
Chỉ có Phật Giáo Hòa Hảo là tôn giáo đang bị đàn áp mạnh nhứt là có một lực lượng vững chắc hơn, nhưng là một lực lượng nhỏ.
Đối ngoại, các cường quốc như Mỹ, Pháp, Anh, Úc, Trung Quốc đều có giao thương với Việt Nam và hưởng rất nhiều lợi lộc. Họ không thể công khai hoặc ngấm ngầm ủng hộ lập trường của LỰC LƯỢNG VIỆT NAM như họ đã làm cho Bà Aung San Suu Kyi.
Trong tình trạng như vậy, Ba vị Lãnh Đạo Tinh Thần chỉ có thể dựa vào sức lực của mình mà thôi. LỰC LƯỢNG phải là một ý thức tự lập và một nổ lực bền bĩ của tất cả công dân Việt Nam muốn thay đổi vận mạng của mình một cách ôn hòa nhưng dứt khoát.
Không có ai giúp ta thì ta phải tự giúp lấy ta. Lực lượng không nên mơ mộng nhiều ở ngoại lực, ngược lại, Lực Lượng phải cho thế giới thấy trình độ văn hóa của người Việt khi đến lúc phải giải quyết chuyện nhà.
LỰC LƯỢNG VIỆT NAM  không phải để dùng kêu gọi người dân nổi dậy. Lực Lượng làm việc ban ngày chớ không có làm việc ban đêm. Các người tu hành không có ác tâm, mà chỉ muốn giải quyết vấn đề sao cho có lợi cho mọi người.
LỰC LƯỢNG VIỆT NAM mong đợi mỗi người dân Việt mỗi người mỗi cách bày tỏ chánh kiến của mình một cách đường hoàng rằng mình muốn tự do dân chủ.
Các ông nhạc sĩ Trúc Hồ, Tiến Sĩ Nguyễn Đình Thắng, Ông Nam Lộc đều có nhiệt huyết tổ chức Thỉnh Nguyện Thư. Với những kinh nghiệm đã có, các ông và những người thiện chí khác nữa, có thể nào tổ chức trên bình diện toàn thế giới cho người Việt ký giấy ủy quyền để LỰC LƯỢNG VIỆT NAM đi đối thoại với chánh quyền CS không?
 Cái quyết tâm của các hội đoàn, các Nhà Thờ, Chùa, các nhân sĩ chịu đứng ra tổ chức, cùng với chữ ký của từng người dân sẽ chứng minh hùng hồn trình độ văn minh của người Việt. Mỗi chử ký là một quyết tâm. Một triệu chử ký là LỰC LƯỢNG VIỆT NAM.
Với dân chúng Việt Nam ở hải ngoại chịu dồn toàn lực, tiếng nói của Lực Lượng sẽ nặng ký.
Đối với dân chúng mà mình phải gặp mặt mỗi ngày, đối với thế giới văn minh mà mình phải tiếp xúc, dầu độc tài cách mấy, không một chánh quyền nào chịu nổi sỉ nhục nếu bị bất tín nhiệm công khai.
Chừng đó họ sẽ thương thuyết nghiêm chỉnh. Nhưng vấn đề không kết thúc dễ dàng như vậy. Nếu để thương thuyết thành công thì một số người đang được biệt đãi sẽ mất quyền lợi. Ở Miến Điện họ phải xem Bà Aung San Suu Kyi là kẻ thù. Ở Việt nam, lãnh tụ của Lực Lượng Việt Nam là Hòa Thượng Thích Quảng Độ là mục tiêu. Nhưng những người này sẽ không bị người trong nước giết vì đảng cầm quyền không thể nhất trí được. Vẫn có một số người tỉnh táo, họ có thể xem  Bà Aung San Suu Kyi và Hòa Thượng Quảng Độ là hy vọng của chính họ.
Nhưng Trung Quốc là nước đã thắc lưng buộc bụng cho Bắc Việt vay tiền để đi chiếm Miền Nam. Họ có quyền chờ Việt Nam trả ơn bằng cách chịu ảnh hưởng của họ. Nếu các bế tắc ở Miến Điện hay ở Việt Nam được gở ra thì các kế hoạch của Trung Quốc sẽ hỏng. Nếu để êm xuôi Trung Quốc chỉ cần tối đa là 50 năm nữa là hoàn toàn đô hộ Việt Nam. Người Việt lúc đó, kể cả những 'đại gia' hiện đang được Trung Quốc vung tiền ra cho xài, sẽ trở thành người đi làm thuê trên đất nước của mình.
Bà Aung San Suu Kyi hay Hòa Thượng Thích Quảng Độ là hai cái gai mà nếu không còn thì Trung Quốc phải mừng lắm.
 
HỒ TẤN VINH
Melbourne
Ngày 27 tháng 3, năm 2012