*** QUYỀN LỢI TỔ QUỐC & DÂN TỘC LÀ TRÊN HẾT *** KHAI DÂN TRÍ, CHẤN DÂN KHÍ, HẬU DÂN SINH ***

2011/03/16

Lịch sử văn hóa văn minh Nhật (phần II)

Lịch sử văn hóa văn minh Nhật
(phần II)
GS Tôn Thất Trình
 
4-      Thời kỳ Nara : 710- 794 : văn hóa Tàu kích thích kiến tạo mô hình Nhật

Năm 710 , kinh đô nước Nhật  cố định lần đầu tiên  ở Nara , vùng đồng bằng phì nhiêu  ở  bề đáy bán đảo  Ise  và gần  cuối phía Đông Biển Nội địa Nhật.  Thuở ban đầu của vương quốc  Yamato,  Nhật không có một kinh đô duy nhất . Mỗi hoàng đế nối tiếp nhau  đều quen cai trị  từ dinh trang  mình, vì tiện lợi và  cốt để tránh  ô nhiễm lễ nghi   liên quan đến   tiên đế vừa chết , theo đức tin Thần Đạo. Học thuyết Phật giáo và Khổng giáo  khiến việc di chuyễn  hoàng cùng không còn cần thiết nữa. Việc tạo ra đời sống triều đình và kiến trúc tôn giáo cũng làm cho  di chuyễn không thực hiện được. Cố định  trung tâm chánh quyền  dẫn Nhật tới thời Kỳ Nara . Lưu ý là  bảng niên đại Nhật , khác với sắp xếp niên đại Tàu và nhiều quốc gia khác là không tính theo  triều đại  mà  theo thời kỳ: tên gọi thời kỳ là tên vị trí địa lý quyền lực tỉ như Nara , Kamakura , Edo.  Chính  vào thời kỳ Nara,  văn hóa Tàu và Phật giáo in sâu vào Nhật  đã đâm hoa và  sau đó  sinh trái Nhật,  hoàn toàn địa phương  và  đầy tính chất Nhật.

 Phật giáo tiếp tục tăng trưởng và hàng ngũ  kẻ mộ đạo Phật gia tăng , nhất là ở  giới thượng lưu Nhật. Nguyên cớ thật tình tôn giáo  lúc này, pha trộn  tham vọng chánh trị và Phật giáo, thăng trầm  theo  số phận  các đại tộc gia như Soga chẳng hạn . Tôn giáo mới  ăn sâu vào tâm trí Nhật, không còn  tùy thưộc  một  hay hai  thị tộc  nữa.  Triều đình là một kẻ hổ trợ trung thành của Phật giáo và các nhà cải cách Taika đã nói trên, tiếp theo hoàng tử Shotoku, cũng  vững vàng trọng Phật như vậy.  Trong lâu dài, Phật giáo  thực hiện một ảnh hưởng tinh lọc và  văn hiến trên các chiến sĩ  thô bạo  Nhật bổn đương thời. Phật giáo tiết lộ cho họ sức mạnh của chính nhân quân tử  và mở toang những viễn cảnh  về vấn đề đời sống, chết chóc và đau đớn theo những phương cách Thần Đạo không thi hành đươc.  Một thí dụ cụ thể là ảnh hưởng  của hình ảnh Đức Phật Miroku Bosatsu  đến  chùa sư nữ  Chuguji  Nunnery  ở NARA  từ thế kỷ thứ tám. Một trong những  đo lường mức độ  ảnh hưởng gia tăng của Phật giáo ở Nhật là số tu viện , sư , sải  gia tăng . Năm 624  hai năm sau khi hoàng tử Shotoku  mất, Phật giáo du nhập Nhật chánh thức chỉ mới  7 năm , Nhật  đã có  56 chùa tu , 816 tăng lữ, 569 sư cô, sư bà. Năm 692, con số chùa tu là  545  và cúng dường  triều đình lớn lao làm  cho Phật Giáo Nhật có khuynh hướng trở  thành  một quốc giáo.  Tuy nhiên thực sự Phật giáo không đạt tới tình trạng này, vì  các lễ lạc Thần  Đạo tại triều đình  luôn luôn được duy trì : các hoàng đế cũng như giới quý tộc  ủng hộ cả hai thể chế  Thần Đạo và Phật giáo .  Ý nghĩa chuyên nhất và sự cần thiết  cố tình lựa chọn   một tôn giáo duy nhất của dân Tây Phương  đặc biệt khiếm diện ở Đông ÁĐa số dân Tàu , dân Nhật, dân Việt, không thấy gì khó khăn điều hòa đời sống họ  theo ý nghĩa , nhiều  hơn một đức tin, một tôn giáo  cùng một lúc .

Nghệ thuật viết - the art of writing  giúp cả Thần Đạo lẫn Phật Giáo. Ngay từ thuở ban đầu thời kỳ Nara, các huyền thoại của Thần Đạo cũ được viết  trong   Kojiki( 712 )  và Nihonji hay Nihonshoki ( Sử biên niên Nhật - The Chronicles of Japan, 720 ). Các công trình này trình bày  rỏ rệt  sự phối hợp   của Tàu với các yếu tố địa phương, chất liệu  thuần nhất tinh thần Nhật , nhưng dạng thì pha trộn cả hai. Một dạng văn chương từ thời kỳ Nara là  tập thi phú nổi tiếng tên là Mamnyoshu (  Bộ sưu tập  Hàng Vạn Lá - Collection of a Myriad Leaves ) , có lẽ   do  Tachibana no Moroye ( khoảng 738-756)   , một chức quyền cao cấp   Fugiwara che chở , biên soạn.  Ở thời kỳ sớm này đã có khuynh hướng là lựa chọn yêu chuộng hơn, cách trình bày đề tài  hết sức ngắn gọn  và  chính xác , cũng như   gợi lên một tâm trạng  song song mau lẹ từ Thiên Nhiê , đặc điểm của mọi  thi phú Nhật sau đ . Cũng đặc biệt vắng mặt ở Nhật cũng như ở Trung Quốc là những câu thơ  hùng tráng.  Hùng vĩ trong ngôn ngữ và đề tài  là ở các thể văn xuôi lãng mạn quân sự , tỉ như ở  Taiheiki, không phải ở thi phú,  giai đoạn sớm hay giai đoạn chậm gì cũng vậy .

Phật giáo  là yếu tố chủ trì lịch sữ Nhật thời kỳ Nara, không những ở tôn giáo , văn hóa mà còn ở cả  các lảnh vực kinh tế và chánh trị nữa. Thời hoàng đế Shomu trị vì , một  Phật tử cuồng tín gồm luôn cả thời kỳ Tempyo ( 729- 748 ) vang danh về  lịch sử nghệ thuậ , khi một vài tượng Đức Phật nổi tiếng và  từ bi nhất bằng gỗ và kim loại được thực hiện.  Lúc  Shomu trị vì, Phật Giáo  đã đủ vững chắc và tự tín  để  hòa đồng với những đức tin Thần Đạo địa phương. Sư tăng Phật Giáo Gyogi ( 670- 749 ) dạy rằng  các thần linh Thần Đạo  là những  hóa thân - avatars  hay hiển linh  Đức Phật. Tạo ra nền tảng  của Thần Đạo Đôi  ( Dual Shinto ) Ryobu Shinto.  Theo thuyết này, Thần Nữ Mặt Trời Amaterasu  được thờ phụng  tên gọi là Vaicocana, Đức Phật đại vũ trụ  cai quản  thế giới ánh sáng. Chính Gyogy  cũng tự tay thu thập cúng dường dựng  tượng Phật gọi là Vaicocana  hay Daibutsu ( Đại Phật- Great Buddha )  ở thành phố Nara.  Đúc tượng Phật này là một cố gắng vĩ đại và tốn kém  tài nguyên Nhật,  cao 53 bộ Anh ( 15.9 m), nặng 500 tấn  và mạ 500 cân Anh ( 450 kgr )  vàng kim . Đầu và cỗ tượng  hơn 4,2m đúc liền một khối. Tượng Phật này hoàn thành và đặt ở đại sảnh  rộng lớn  chùa- đền thờ Todaiji năm 752.  Bốn năm sau, vài vật tế lễ chùa này  được đem về cất giữ   ở kho tàng Shosoin  gồm nhiều khúc gỗ lớn, hiện nay còn nguyên vẹn , cũng như những bảu vật của riêng  hoàng đế Shomu:  vũ khí, tranh ảnh, nhạc khí, sổ sách ghi chép điền thổ dân cư nguồn gốc Nhật như đồ gốm  công trình kim loại  từ Trung Quốc,  Trung Á  và có thể cả Ba Tư- Persia nữa . Chính trong thời kỳ Nara,  chùa  Horyuji  xây cất năm 607, bị cháy tiêu  được xây cất lại  năm 704 dưới tên là  Kondo hay Đại sảnh Vàng kim - Golden Hall , một cơ cấu đồ sộ nhưng cân xứng  theo kiến trúc nhà Đường đẹp đẽ nhất, và có lẽ là  chùa xây cất bằng gỗ  xưa nhất  trên thế giới. Tưởng cũng nên biết  chùa loại cổ nhất Việt Nam là chùa Trấn Quốc ,  đời Lý Nam Đế ( Lý Bôn hay Lý Bí 544-  548 )  xây dựng  sát bờ sông Cái tên là  chùa Khai Quốc ( mở nước ) , đời vua Lê Thái tông ( 14340- 1442 ) đổi tên là  chùa An Quốc . Đời vua Lê Kính Tông  ( 1600- 1618) bải sông lở , dân dời chùa vào hòn đảo Cá Vàng  ở giữa Hồ Tây; đến đời vua Lê Huy Tông ( 1580- 1705 ) mới đổi thành tên thành chùa Trấn Quốc . Chùa có lối kiến trúc độc đáo  khác với nhiều chùa Việt Nam, phía trước là nhà bái đường, rồi đến nhà Tam Bảo, phía sau mới là hai dãy hành lang thập điện  và gác chuông. Trong chùa có một số tượng đẹp, đáng chú ý nhất là  pho tượng Đức Thích Ca nhập Niết Bàn bằng gỗ thếp vàng.

Chính sự  kiện Phật giáo phát triễn mạnh mẽ thời kỳ Nara đã gây ra nhiều chống đối  lớn lao cho rằng  tăng lữ Phật giáo quá uy vũ  và ảnh hưởng quá xá trên hoàng đế và trên những gì được bắt đầu trở thành tôn quý dưới danh nghĩa chánh sách quốc gia Nhật . Phản ứng chống lại các tu viện  vượt nhanh  vào thập niên 760, khi một tu sĩ Phật giáo  Dokyo  cố gắng làm  nữ hoàng Koken  yêu mến mình  bằng  giải thích tâng bốc, nịnh bợ các cơn mộng và điềm báo trước. Dù đại tộc Fuyiwara muốn hất cẳng ông, Dokyo đã trở nên  người tâm phúc, đại pháp quan và có lẽ tình nhân của Koken. Nhưng năm 770, nữ hoàng Koken chết và uy quyền của Dokyo mất hết ngay.

Ba năm sau khi Kammu ( 781- 806 ) lên ngôi hoàng đế , có quyết định dời đô  đến Nagoaka, không cách xa Nara mấy về phía Bắc. Lần này không phải vì những lý do thuần khiết lễ nghi, mà một phần là cố thoát khỏi ảnh hưởng " xấu xa"  các đại tu viện Nara. Kinh đô đóng ở Nagoaka chỉ 10 năm.  Hoàng đế Kammu ,sau khi  hỏi han cặn kẽ các nhà chiêm tinh (thầy bói địa lý), lựa một vị trí  mới, nay là Kyoto cận đại,  và đến  định cư ở Kyoto năm 794. Kinh đô mới là đồ án vĩ đại, tên là Heiankyo hay Kinh đô  của  Yên tĩnh Vĩnh Cửu-  Capital of Eternal Tranquillity , có họa kiểu mạng lưới hình chữ Nhật như Nara, chiếu  theo đường hướng  kinh đô  rực rỡ Trường An đời Đường. Nhật bổn vào thời kỳ này không có đủ tài nguyên như Trung Quốc để hoàn tất đồ án Kyoto. Thế nhưng cố gắng phi thường này chứng tỏ  là Nhật bổn  thật sự muốn  tiến  đến  kiểu văn minh Trung Quốc, nhưng theo cách của chính Nhật bổn . 


               5- Mô hình Nhật bổn  thời kỳ Đầu Heian ( 794- 857 ) , thời kỳ Cuối  Heian hay  Fugiwara ( 858- 1158 ) ,  thời  kỳ Chấm Dứt  Heian ( 1158- 1185 )  và  Giới Chiến Sĩ xuất hiện.
                 
                                 Thời kỳ Đầu Heian  ngắn ngủi  có đặc điểm là  Trung ương giảm bớt quyền kiểm soát  các lảnh thổ mới ở phía Đông và phía Bắc và những phát triễn mới của Phật giáo. Lúc mới  lên ngôi hoàng đế, Kammu đã phải đương đầu với sự thiết lập hai kinh đô kế tiếp nhau, nhưng vẫn phải  lo âu đến  những vấn đề cấp bách, vì sự chuyễn động của tộc dân Ainu  ở miền Bắc Nhật. Những ruộng  lúa tốt đẹp của đồng bằng  Kanto, dần dần  bị dân giang hồ tứ chiến Nhật chiếm, khi họ  tiến về Đông rồi về Bắc. Một mặt họ phải làm ruộng , mặt khác họ  chống cự , vì  cuộc tiến tới của họ bị tộc dân Ainu tranh chấp . Ainu đã chiếm cứ các lảnh thổ này từ thời tân thạch, thời kỳ đồ đá mới-neolithic . Những chiến công  của dân Nhật miền Đông thời Nhật ban sơ , đã được ca tụng nhiều và họ cũng bị động viên  thường xuyên  đi chinh chiến ở Cao Ly ( Triều Tiên ) từ thế kỷ thứ  tư đến thế kỷ thứ sáu. Năm 663, quân đội Nhật thất trận ở Triều Tiên và vương triều đồng minh Paikche bị vương triều Silla và nhà Đường phá tan.  Dù cho Ainu có kháng cự, đa số dân Ainu  sinh sống hòa bình  cùng kẻ mới đến.  Định hướng lan tràn  loại chánh quyền kiểu Tàu, thu nhận ở Cải Cách  Taika, không nuôi nấng  tinh thần chiến đấu  binh sĩ hay tướng tá . Hệ thống dân quân  làm các binh sĩ thiếu kỷ xảo, tinh thần chiến đấu thấp hèn  và các cấp chỉ huy là đồ kiểng  hơn là tướng tá.

                        Vào lúc này, các năm 805và 806, 12 năm sau khi thành lập Heian,  một sự cố cặp đôi xảy ra, đem lại một phát triễn đáng kể  cho Phật giáo ở Nhật, nhưng không  giải thoát  kinh đô mới khỏi  những căng thẳng chánh trị do tôn giáo đưa tới  như ở Nara.  Đó là 2 năm, hai nhà sư học giả nổi bật,SaichoKukai, đạt quyền uy tột đỉnh, trở về Nhật sau một thời gian học hỏi ở Trung Quốc. Saicho ( sau đó được tôn danh là Dengyi Daichi ). Chùa tu viện Enryakuji của Saicho, thiết lập trước cả kinh đô Heian, tự tạo một thanh thế lớn, vì chùa được sử dụng để bảo vệ kinh đô khỏi những ảnh hưởng thâm hiểm đến từ Quỷ Môn Quan ( Ngõ Quỷ - Demon Entrance), hướng Tây Bắc thiếu may mắn.  Hơn nữa, vài thần Thần Đạo  được thờ  như thể thần núi.  Không muốn làm phật lòng  đức tin Thần Đạo, đặc biệt ở vùng Yamato , Saicho đến sùng bái  một trong những thần này có tên là Sanno- Vua Núi . Nhờ vậy,  Phật giáo Ấn Độ,  Thần Đạo Nhật và Chiêm Tinh Tàu , thảy đều được phần nào bảo vệ , theo tinh thần tu viện  Enryakuji  hiến cho kinh đô .  Khi từ Trung Quốc trở về , Saicho còn đem theo học thuyết môn phái Tendai vào Nhật . Tenđai có nghĩa là " Thiên lĩnh-Heavenly Platform " hay cương lĩnh thụ phong.  Môn phái  Tendai có thêm ưu thế, khi Hoàng đế Nhật  cấp cho  môn phái Tendai  quyền thụ phong  các tăng lữ Phật giáo,   như các môn phái cũ ở Nara. Môn phái Tendai cường thịnh  hẳn lên, Cuối thời kỳ ở dãy núi Hiei rải rác có đến 3000  đền thờ, nhà thờ nhỏ, tu viện.

                            Nhà sư thứ hai trở về Nhật là  Kukai hay Kobo Daishi  đến núi Koya ở vùng Yamato , phía Đông Nam kinh thành.  Ông cải cách thành dạng Nhật  một môn phái quan trọng khác  là Shingon - Thế giới Thật sự.  Môn phái này  cũng trở nên uy vũ  và đối thủ tranh quyền Tendai, có khi làm rối loạn cả vương quốc Nhật .  Một nhà sư học giả khác Ennin ( 793- 864 )   cũng học đạo ở Tràng An từ  các nhà sư Tàu và Ấn Độ , được hoan nghênh khi trở về Nhật, đem kinh điển  và  các vật quí giá thờ phụng bí truyền rồi lan tràn khắp Nhật . Ông cũng đựợc vua phong làm Daishi như Saicho và Kukai.

                           Phần lớn  thời kỳ  Heian  do đại tộc  Fugiwara chủ trì. Ảnh hưởng của dòng họ này bắt đầu trước cả thiết lập kinh đô Nara .  Như đã kể trên chính thiết lập viên dòng họ Fugiwara Kamatari  là khiến trúc sư Cải Cách Taika .  Theo thời gian  và qua nhiều đấu tranh, chi nhánh Hokke  ở phía Bắc đã trỗi dậy thành những lảnh tụ Fugiwara , nhờ trước tiên  kiểm soát điền địa, ruộng đất căn bản liên tục quyền uy chánh trị ở Nhật. Nhưng một phương tiện lớn nhất để  đại tộc Fujiwara  sử dụng  duy trì quyền uy chủ trì  chánh trị   là liên tục kết hôn với đế triều.  Đại tộc Fugiwara  cố thu xếp  để các con gái  họ  trở thành vợ hay nàng hầu, cung phi  các đế vương Nhật kế tiếp nhau;  thật sự không cướp đoạt quyền  nhưng cốt bảo vệ ngôi vàng. Không như Trần thủ Độ lập mưu cho Trần Cảnh lấy Lý Chiêu Hoàng , sau đó  bắt Lý chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh năm 1226, cướp ngôi nhà Lý, lập ra nhà Trần.

                             Thời kỳ Heian có vài sự kiện lịch sử văn hóa Nhật đáng kể là  khi Michizane, một nhiếp chánh khi hoang đế còn nhỏ tuổi sessho, lên chức  nhiếp chánh khi hoàng đế đã lớn tuổi kampaku - độc tài dân sự , bị thất sủng  từ chối làm đại sứ sang Tàu, lấy cớ là triều đại nhà Đường đang suy thoái , rồi sắp xếp để  bải bỏ những chuyến  Nhật tham quan  ở Tàu. Vì dân Nhật có cảm tưởng  là đã hấp thu hết mọi điều Tàu có thể cung cấp. Đã đến lúc, Nhật phải tiến tới  hình thành toàn diện văn hóa  riêng cho Nhật, căn cứ trên các tài nguyên  đã nhận được.  Thứ hai là nữ sĩ Murasaki Shikibu , thị nữ của nữ hoàng  Akiko, đã dùng lối viết Nhật  kana ( thay vì dùng cách viết hoàn toàn Tàu )  viết ra  truyện  nổi tiếng  Genji Monogatari - Chuyện của Genji (  Arthur Waley, New York, dịch ra tiếng Anh năm 1955 ) vào năm  1008, được xem là  công trình văn chương Nhật lớn nhấ . Khả năng mô tả những rung động con tim , tinh cảm  sầu muộn khao khát thoáng đôi chút tinh thần Phật Giáo, những câu chuyện yêu đương của hoàng tử trẻ tuổi Genji  thường được so sánh ngang hàng các truyện  Jane Austen và Charlotte Bronte, các câu aware no mono - mọi điều ảm đạm , buôn bả  của Genji  rất giống  câu Virgil , nhà văn thời Cỗ La Mã: Sunt  lacrimae rerum et mentum  mortalia tangun-  Mọi điều là nước mắt  và những  câu chuyện yêu đương nhân sinh  nghiệt ngã chấn động  con tim .
 
                    Cuối thời kỳ Heian( 1158-1185) là  lúc giới chiến sĩ nổi lên  và chiến tranh Gempei xảy ra. Vào thời kỳ này, trọng tâm  uy quyền chánh trị  ngã từ phía  hoàng đế  và quí tộc triều đình qua các thủ trưởng các gia đình chiến sĩ, từ kinh đô Kyoto qua cách dinh trang trong nước, từ những ai có chức tước cha truyền con nối  và cai trị  dưới thể thức một chánh phủ dân sự kiểu Tàu qua  những lảnh tụ các  thị tộc, mới hay cũ,  đã  chiếm đất đai  và quyền uy cho họ  bằng đao kiếm và cánh tay mặt mạnh mẽ. Theo truyền thống bảo thủ Nhật,  mọi đặc điểm cũ vẫn tồn tại - hoàng đế , quí tộc , chức tước và kinh đô cũ -, nhưng chúng  dần dần biến thành  những tượng trưng trống rỗng, vì quyền uy đã  lọt vào tay  kẻ khác.  Chiến tranh  giữa hai  đại gia  đương thời lấy tên của  từ danh xưng Tàu " Gen " mà tiếng Nhật địa phương gọi là "Minamoto "  và " Hei " , Nhật gọi là  Taira. Phối hợp theo ngữ âm học thành " Gempei ". Thời kỳ này, Nhật vẫn gọi là Heinan, nhưng lảnh đạo đã rỏ rệt chuyễn từ đại tộc Fujiwara qua các gia đình chiến sĩ. Dù rằng cả hai thị tộc Taira và Minamoto chia sẽ quyền hành ở các tỉnh, Taira trở nên  lực lượng ưu thế  ở Nhật , nhờ  ảnh hưởng của  Taira Kiyomori,  trở thành thủ trưởng thị tộc mình  năm 1153 và không có đối thủ, mãi cho đến khi ông chết  năm 1181. Kiyomori  được  cựu hoàng đế Go- Shirakawa nghe lời,  đã dùng vị trí ông ở triều đình, gia sản giàu có tăng gia và ảnh hưởng  thị tộc của ông ở  vùng Biển Nội Điạ.  Vài công trình ông xây dựng đáng kể ra là  hải cảng,  đào vét kinh  và phát triễn thương mãi với Trung Quốc, những giá trị  vĩnh viễn cho Nhật bổn.

                         Chiến tranh Gempei  đầu tiên xảy ra tháng 9 năm 1180  ở Ishibashiyama, và trận thứ nhì  vào mùa thu năm  1183.  Một hư cấu  truyện hiệp sĩ vang danh ở Nhât kể ra là chuyện  Yoshinak bị giết  sau khi chống cự mãnh liệt ở cầu Uji , năm 1180. Chiến tranh Gempei giữa các thị tộc  là nguồn chánh cho các tiểu thuyết truyền ký  làm vui thích  nhiều thế hệ cử tọa Nhật ở sân khấu  bi kịch phổ thông- Kabuki  hay ở các bi kịch cỗ điển- No, tạo ra  một lý tưởng dũng cảm và trung thành cho hết thảy mọi dân Nhật.  Ảnh hưởng của lý tưởng này  thấm nhuần suy tư và lịch sử Nhật, kéo dài đến thế kỷ thứ 20. Tình trạng Nhật cận đại , lẽ dĩ nhiên,  thay đổi mau lẹ theo phát triễn kỷ thuật. Nhưng ít nhất , mãi đến gần đây, những tên tuổi  nổi tiếng thời Trung Cỗ Nhật có lẽ  đã  hiện diện thân thiết hơn trong trí óc dân Nhật, còn  hơn cả những tên tuổi tương tự ở trí óc dân Tây Phương hiện đại như Philippe II  của Pháp , Frederic  Barbarossa, HenryII của Anh Quốc ,  Eleanor  of Aquitaine , Richard I  Coeur -de -Lion ( vua nước Anh  từ 1189 đến  1199, khi chiến tranh Gempei vừa chấm dứt ), Saladin ( kẻ chống đối  vua này  thời  Thập Tự chinh- Crusade thứ III ) và Walther von der Vogeldweide ở Đức .

                       Đối với các chiến sĩ thời Trung Cỗ Nhật, đạo Zen - Thiền ( tiếng Tàu là Ch'an )  là đức tin  tôn giáo  phổ thông nhất. Zen căn cứ  trên thủ lệ  Phật giáo Ấn Độ thuở ban đầu  tìm sự giải thoát  trong mặc niệm. Nhưng ở Trung Quốc, Thiền hòa lẫn với nhận thức  Lão giáo  trên cá nhân , độc lập, hòa đồng với  thiên nhiên và trật tự, làm ra môn phái Thiền -  Ch'an.  Nhà sư Eisai du nhập môn phái Rizai đạo Thiền  đến Kamakura, bản doanh của Yorimoto năm 1191, khi Yorimoto còn sống. Đệ tử  của Eisai là Dogen  du nhập thêm một môn phái Zen khác  môn phái Soto, năm 1227.  Cả hai môn phái Zen này còn thịnh hành ngày nay  ở Nhật .

                          Tinh thần hiệp sĩ - chivalry của chiến sĩ Nhật thường được liên kết  với qui tắc danh dự hiệp sĩ  Trung Cỗ Tây Phương . Điểm khác biệt lớn nhất  là phẩm giá hiệp sĩ cho phụ nữ, không bao giờ có  ở qui tắc Nhật cho đàn bà  và những kẻ yếu đuối.  Đông Phương Trung Cỗ Nhật  không biết ca tụng tình yêu  và  thờ phụng  tính trạng phụ nữ .  Chính ngay ý tưởng nghiêng về nữ giới  sẽ là một cú sốc lớn  cho dân Nhật. Động cơ những cư xử  dũng cảm và chịu đựng nhẫn nại không tưởng tượng nổi của hiệp sĩ Nhật  có 2 nguồn : từ kiêu hảnh và danh dự và từ trung thành cho một lảnh chúa , còn trên trung thành  đối với hoàng đế hay đối với tôn giáo. Hiệp sĩ Nhật  thiếu  khả năng của hiệp sĩ Trung Cỗ Tây Phương, nói lên  sức chiến đấu cho một chính nghĩa lý tưởng.

                        Đối chiếu với sử Việt Nam chiến tranh Gempei  giữa các "sứ quân " xảy ra sau  cả thời  Đinh Bộ Lĩnh( 924- 979 ) dẹp loạn 12 sứ quân, lên ngôi vua năm 968, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư , thuộc tỉnh Ninh Bình ngày nay. Sau  khi vua Đinh Tiên Hoàng bị Đổ Thích ám sát, Lê Hoàn ( 941- 1005 ), lên ngôi vua năm 980, đánh  thắng quân nhà Tống xâm lăng, ở trận  đường thủy Bạch Đằng và  ở  trân đường bộ Ải Chi Lăng, chăm lo xây dựng và bảo vệ  đất nước; đối nội chống cát cứ địa phương xây dựng " hạ tầng kinh tế " , chánh trị thống nhất ; đối ngoại  nhu thuận nhưng cương quyết.  Thời nhà  Lý , sau khi Lý Công Uẩn ( 974- 1028 ) , quê ở tỉnh Bắc Ninh cũ, con nuôi của thiền sư Lý khánh Vân , em Thiền sư Vạn Hạnh ( có truyền thuyết cho ông là con của Vạn Hạnh ? ) lên ngôi vua năm  1010,  dời đô qua Thăng Long ( Hà Nội ngày nay )  là con đẻ hay con tinh thần của các vị cao tăng xuất sắc , thực sự là con ưu tú của  trung tâm kinh tế Cổ Pháp  - văn hóa Lục Tổ Phật giáo Việt Nam thế kỷ thứ 10. Nhà Lý là thời Phật giáo cường thịnh nhất ở Việt Nam.





Con Dân Nước Việt là những người đặt Tổ Quốc lên bản vị tối cao, tối cao có nghĩa là trên tất cả mọi vật, kể cả tôn giáo, đảng phái, và cả chính bản thân mình.

No comments:

Post a Comment