Lịch sử văn hóa văn minh Nhật
(phần II)
GS Tôn Thất Trình 4- Thời kỳ Nara : 710- 794 : văn hóa Tàu kích thích kiến tạo mô hình Nhật
Năm 710 , kinh đô nước Nhật cố định lần đầu tiên ở Nara , vùng đồng bằng phì nhiêu ở bề đáy bán đảo Ise và gần cuối phía Đông Biển Nội địa Nhật. Thuở ban đầu của vương quốc Yamato, Nhật không có một kinh đô duy nhất . Mỗi hoàng đế nối tiếp nhau đều quen cai trị từ dinh trang mình, vì tiện lợi và cốt để tránh ô nhiễm lễ nghi liên quan đến tiên đế vừa chết , theo đức tin Thần Đạo. Học thuyết Phật giáo và Khổng giáo khiến việc di chuyễn hoàng cùng không còn cần thiết nữa. Việc tạo ra đời sống triều đình và kiến trúc tôn giáo cũng làm cho di chuyễn không thực hiện được. Cố định trung tâm chánh quyền dẫn Nhật tới thời Kỳ Nara . Lưu ý là bảng niên đại Nhật , khác với sắp xếp niên đại Tàu và nhiều quốc gia khác là không tính theo triều đại mà theo thời kỳ: tên gọi thời kỳ là tên vị trí địa lý quyền lực tỉ như Nara , Kamakura , Edo. Chính vào thời kỳ Nara, văn hóa Tàu và Phật giáo in sâu vào Nhật đã đâm hoa và sau đó sinh trái Nhật, hoàn toàn địa phương và đầy tính chất Nhật.
Phật giáo tiếp tục tăng trưởng và hàng ngũ kẻ mộ đạo Phật gia tăng , nhất là ở giới thượng lưu Nhật. Nguyên cớ thật tình tôn giáo lúc này, pha trộn tham vọng chánh trị và Phật giáo, thăng trầm theo số phận các đại tộc gia như Soga chẳng hạn . Tôn giáo mới ăn sâu vào tâm trí Nhật, không còn tùy thưộc một hay hai thị tộc nữa. Triều đình là một kẻ hổ trợ trung thành của Phật giáo và các nhà cải cách Taika đã nói trên, tiếp theo hoàng tử Shotoku, cũng vững vàng trọng Phật như vậy. Trong lâu dài, Phật giáo thực hiện một ảnh hưởng tinh lọc và văn hiến trên các chiến sĩ thô bạo Nhật bổn đương thời. Phật giáo tiết lộ cho họ sức mạnh của chính nhân quân tử và mở toang những viễn cảnh về vấn đề đời sống, chết chóc và đau đớn theo những phương cách Thần Đạo không thi hành đươc. Một thí dụ cụ thể là ảnh hưởng của hình ảnh Đức Phật Miroku Bosatsu đến chùa sư nữ Chuguji Nunnery ở NARA từ thế kỷ thứ tám. Một trong những đo lường mức độ ảnh hưởng gia tăng của Phật giáo ở Nhật là số tu viện , sư , sải gia tăng . Năm 624 hai năm sau khi hoàng tử Shotoku mất, Phật giáo du nhập Nhật chánh thức chỉ mới 7 năm , Nhật đã có 56 chùa tu , 816 tăng lữ, 569 sư cô, sư bà. Năm 692, con số chùa tu là 545 và cúng dường triều đình lớn lao làm cho Phật Giáo Nhật có khuynh hướng trở thành một quốc giáo. Tuy nhiên thực sự Phật giáo không đạt tới tình trạng này, vì các lễ lạc Thần Đạo tại triều đình luôn luôn được duy trì : các hoàng đế cũng như giới quý tộc ủng hộ cả hai thể chế Thần Đạo và Phật giáo . Ý nghĩa chuyên nhất và sự cần thiết cố tình lựa chọn một tôn giáo duy nhất của dân Tây Phương đặc biệt khiếm diện ở Đông Á. Đa số dân Tàu , dân Nhật, dân Việt, không thấy gì khó khăn điều hòa đời sống họ theo ý nghĩa , nhiều hơn một đức tin, một tôn giáo cùng một lúc .
Nghệ thuật viết - the art of writing giúp cả Thần Đạo lẫn Phật Giáo. Ngay từ thuở ban đầu thời kỳ Nara, các huyền thoại của Thần Đạo cũ được viết trong Kojiki( 712 ) và Nihonji hay Nihonshoki ( Sử biên niên Nhật - The Chronicles of Japan, 720 ). Các công trình này trình bày rỏ rệt sự phối hợp của Tàu với các yếu tố địa phương, chất liệu thuần nhất tinh thần Nhật , nhưng dạng thì pha trộn cả hai. Một dạng văn chương từ thời kỳ Nara là tập thi phú nổi tiếng tên là Mamnyoshu ( Bộ sưu tập Hàng Vạn Lá - Collection of a Myriad Leaves ) , có lẽ do Tachibana no Moroye ( khoảng 738-756) , một chức quyền cao cấp Fugiwara che chở , biên soạn. Ở thời kỳ sớm này đã có khuynh hướng là lựa chọn yêu chuộng hơn, cách trình bày đề tài hết sức ngắn gọn và chính xác , cũng như gợi lên một tâm trạng song song mau lẹ từ Thiên Nhiê , đặc điểm của mọi thi phú Nhật sau đ . Cũng đặc biệt vắng mặt ở Nhật cũng như ở Trung Quốc là những câu thơ hùng tráng. Hùng vĩ trong ngôn ngữ và đề tài là ở các thể văn xuôi lãng mạn quân sự , tỉ như ở Taiheiki, không phải ở thi phú, giai đoạn sớm hay giai đoạn chậm gì cũng vậy .
Phật giáo là yếu tố chủ trì lịch sữ Nhật thời kỳ Nara, không những ở tôn giáo , văn hóa mà còn ở cả các lảnh vực kinh tế và chánh trị nữa. Thời hoàng đế Shomu trị vì , một Phật tử cuồng tín gồm luôn cả thời kỳ Tempyo ( 729- 748 ) vang danh về lịch sử nghệ thuậ , khi một vài tượng Đức Phật nổi tiếng và từ bi nhất bằng gỗ và kim loại được thực hiện. Lúc Shomu trị vì, Phật Giáo đã đủ vững chắc và tự tín để hòa đồng với những đức tin Thần Đạo địa phương. Sư tăng Phật Giáo Gyogi ( 670- 749 ) dạy rằng các thần linh Thần Đạo là những hóa thân - avatars hay hiển linh Đức Phật. Tạo ra nền tảng của Thần Đạo Đôi ( Dual Shinto ) Ryobu Shinto. Theo thuyết này, Thần Nữ Mặt Trời Amaterasu được thờ phụng tên gọi là Vaicocana, Đức Phật đại vũ trụ cai quản thế giới ánh sáng. Chính Gyogy cũng tự tay thu thập cúng dường dựng tượng Phật gọi là Vaicocana hay Daibutsu ( Đại Phật- Great Buddha ) ở thành phố Nara. Đúc tượng Phật này là một cố gắng vĩ đại và tốn kém tài nguyên Nhật, cao 53 bộ Anh ( 15.9 m), nặng 500 tấn và mạ 500 cân Anh ( 450 kgr ) vàng kim . Đầu và cỗ tượng hơn 4,2m đúc liền một khối. Tượng Phật này hoàn thành và đặt ở đại sảnh rộng lớn chùa- đền thờ Todaiji năm 752. Bốn năm sau, vài vật tế lễ chùa này được đem về cất giữ ở kho tàng Shosoin gồm nhiều khúc gỗ lớn, hiện nay còn nguyên vẹn , cũng như những bảu vật của riêng hoàng đế Shomu: vũ khí, tranh ảnh, nhạc khí, sổ sách ghi chép điền thổ dân cư nguồn gốc Nhật như đồ gốm công trình kim loại từ Trung Quốc, Trung Á và có thể cả Ba Tư- Persia nữa . Chính trong thời kỳ Nara, chùa Horyuji xây cất năm 607, bị cháy tiêu được xây cất lại năm 704 dưới tên là Kondo hay Đại sảnh Vàng kim - Golden Hall , một cơ cấu đồ sộ nhưng cân xứng theo kiến trúc nhà Đường đẹp đẽ nhất, và có lẽ là chùa xây cất bằng gỗ xưa nhất trên thế giới. Tưởng cũng nên biết chùa loại cổ nhất Việt Nam là chùa Trấn Quốc , đời Lý Nam Đế ( Lý Bôn hay Lý Bí 544- 548 ) xây dựng sát bờ sông Cái tên là chùa Khai Quốc ( mở nước ) , đời vua Lê Thái tông ( 14340- 1442 ) đổi tên là chùa An Quốc . Đời vua Lê Kính Tông ( 1600- 1618) bải sông lở , dân dời chùa vào hòn đảo Cá Vàng ở giữa Hồ Tây; đến đời vua Lê Huy Tông ( 1580- 1705 ) mới đổi thành tên thành chùa Trấn Quốc . Chùa có lối kiến trúc độc đáo khác với nhiều chùa Việt Nam, phía trước là nhà bái đường, rồi đến nhà Tam Bảo, phía sau mới là hai dãy hành lang thập điện và gác chuông. Trong chùa có một số tượng đẹp, đáng chú ý nhất là pho tượng Đức Thích Ca nhập Niết Bàn bằng gỗ thếp vàng.
Chính sự kiện Phật giáo phát triễn mạnh mẽ thời kỳ Nara đã gây ra nhiều chống đối lớn lao cho rằng tăng lữ Phật giáo quá uy vũ và ảnh hưởng quá xá trên hoàng đế và trên những gì được bắt đầu trở thành tôn quý dưới danh nghĩa chánh sách quốc gia Nhật . Phản ứng chống lại các tu viện vượt nhanh vào thập niên 760, khi một tu sĩ Phật giáo Dokyo cố gắng làm nữ hoàng Koken yêu mến mình bằng giải thích tâng bốc, nịnh bợ các cơn mộng và điềm báo trước. Dù đại tộc Fuyiwara muốn hất cẳng ông, Dokyo đã trở nên người tâm phúc, đại pháp quan và có lẽ tình nhân của Koken. Nhưng năm 770, nữ hoàng Koken chết và uy quyền của Dokyo mất hết ngay.
Ba năm sau khi Kammu ( 781- 806 ) lên ngôi hoàng đế , có quyết định dời đô đến Nagoaka, không cách xa Nara mấy về phía Bắc. Lần này không phải vì những lý do thuần khiết lễ nghi, mà một phần là cố thoát khỏi ảnh hưởng " xấu xa" các đại tu viện Nara. Kinh đô đóng ở Nagoaka chỉ 10 năm. Hoàng đế Kammu ,sau khi hỏi han cặn kẽ các nhà chiêm tinh (thầy bói địa lý), lựa một vị trí mới, nay là Kyoto cận đại, và đến định cư ở Kyoto năm 794. Kinh đô mới là đồ án vĩ đại, tên là Heiankyo hay Kinh đô của Yên tĩnh Vĩnh Cửu- Capital of Eternal Tranquillity , có họa kiểu mạng lưới hình chữ Nhật như Nara, chiếu theo đường hướng kinh đô rực rỡ Trường An đời Đường. Nhật bổn vào thời kỳ này không có đủ tài nguyên như Trung Quốc để hoàn tất đồ án Kyoto. Thế nhưng cố gắng phi thường này chứng tỏ là Nhật bổn thật sự muốn tiến đến kiểu văn minh Trung Quốc, nhưng theo cách của chính Nhật bổn .
5- Mô hình Nhật bổn thời kỳ Đầu Heian ( 794- 857 ) , thời kỳ Cuối Heian hay Fugiwara ( 858- 1158 ) , thời kỳ Chấm Dứt Heian ( 1158- 1185 ) và Giới Chiến Sĩ xuất hiện.
Thời kỳ Đầu Heian ngắn ngủi có đặc điểm là Trung ương giảm bớt quyền kiểm soát các lảnh thổ mới ở phía Đông và phía Bắc và những phát triễn mới của Phật giáo. Lúc mới lên ngôi hoàng đế, Kammu đã phải đương đầu với sự thiết lập hai kinh đô kế tiếp nhau, nhưng vẫn phải lo âu đến những vấn đề cấp bách, vì sự chuyễn động của tộc dân Ainu ở miền Bắc Nhật. Những ruộng lúa tốt đẹp của đồng bằng Kanto, dần dần bị dân giang hồ tứ chiến Nhật chiếm, khi họ tiến về Đông rồi về Bắc. Một mặt họ phải làm ruộng , mặt khác họ chống cự , vì cuộc tiến tới của họ bị tộc dân Ainu tranh chấp . Ainu đã chiếm cứ các lảnh thổ này từ thời tân thạch, thời kỳ đồ đá mới-neolithic . Những chiến công của dân Nhật miền Đông thời Nhật ban sơ , đã được ca tụng nhiều và họ cũng bị động viên thường xuyên đi chinh chiến ở Cao Ly ( Triều Tiên ) từ thế kỷ thứ tư đến thế kỷ thứ sáu. Năm 663, quân đội Nhật thất trận ở Triều Tiên và vương triều đồng minh Paikche bị vương triều Silla và nhà Đường phá tan. Dù cho Ainu có kháng cự, đa số dân Ainu sinh sống hòa bình cùng kẻ mới đến. Định hướng lan tràn loại chánh quyền kiểu Tàu, thu nhận ở Cải Cách Taika, không nuôi nấng tinh thần chiến đấu binh sĩ hay tướng tá . Hệ thống dân quân làm các binh sĩ thiếu kỷ xảo, tinh thần chiến đấu thấp hèn và các cấp chỉ huy là đồ kiểng hơn là tướng tá.
Vào lúc này, các năm 805và 806, 12 năm sau khi thành lập Heian, một sự cố cặp đôi xảy ra, đem lại một phát triễn đáng kể cho Phật giáo ở Nhật, nhưng không giải thoát kinh đô mới khỏi những căng thẳng chánh trị do tôn giáo đưa tới như ở Nara. Đó là 2 năm, hai nhà sư học giả nổi bật,Saicho và Kukai, đạt quyền uy tột đỉnh, trở về Nhật sau một thời gian học hỏi ở Trung Quốc. Saicho ( sau đó được tôn danh là Dengyi Daichi ). Chùa tu viện Enryakuji của Saicho, thiết lập trước cả kinh đô Heian, tự tạo một thanh thế lớn, vì chùa được sử dụng để bảo vệ kinh đô khỏi những ảnh hưởng thâm hiểm đến từ Quỷ Môn Quan ( Ngõ Quỷ - Demon Entrance), hướng Tây Bắc thiếu may mắn. Hơn nữa, vài thần Thần Đạo được thờ như thể thần núi. Không muốn làm phật lòng đức tin Thần Đạo, đặc biệt ở vùng Yamato , Saicho đến sùng bái một trong những thần này có tên là Sanno- Vua Núi . Nhờ vậy, Phật giáo Ấn Độ, Thần Đạo Nhật và Chiêm Tinh Tàu , thảy đều được phần nào bảo vệ , theo tinh thần tu viện Enryakuji hiến cho kinh đô . Khi từ Trung Quốc trở về , Saicho còn đem theo học thuyết môn phái Tendai vào Nhật . Tenđai có nghĩa là " Thiên lĩnh-Heavenly Platform " hay cương lĩnh thụ phong. Môn phái Tendai có thêm ưu thế, khi Hoàng đế Nhật cấp cho môn phái Tendai quyền thụ phong các tăng lữ Phật giáo, như các môn phái cũ ở Nara. Môn phái Tendai cường thịnh hẳn lên, Cuối thời kỳ ở dãy núi Hiei rải rác có đến 3000 đền thờ, nhà thờ nhỏ, tu viện.
Nhà sư thứ hai trở về Nhật là Kukai hay Kobo Daishi đến núi Koya ở vùng Yamato , phía Đông Nam kinh thành. Ông cải cách thành dạng Nhật một môn phái quan trọng khác là Shingon - Thế giới Thật sự. Môn phái này cũng trở nên uy vũ và đối thủ tranh quyền Tendai, có khi làm rối loạn cả vương quốc Nhật . Một nhà sư học giả khác Ennin ( 793- 864 ) cũng học đạo ở Tràng An từ các nhà sư Tàu và Ấn Độ , được hoan nghênh khi trở về Nhật, đem kinh điển và các vật quí giá thờ phụng bí truyền rồi lan tràn khắp Nhật . Ông cũng đựợc vua phong làm Daishi như Saicho và Kukai.
Phần lớn thời kỳ Heian do đại tộc Fugiwara chủ trì. Ảnh hưởng của dòng họ này bắt đầu trước cả thiết lập kinh đô Nara . Như đã kể trên chính thiết lập viên dòng họ Fugiwara Kamatari là khiến trúc sư Cải Cách Taika . Theo thời gian và qua nhiều đấu tranh, chi nhánh Hokke ở phía Bắc đã trỗi dậy thành những lảnh tụ Fugiwara , nhờ trước tiên kiểm soát điền địa, ruộng đất căn bản liên tục quyền uy chánh trị ở Nhật. Nhưng một phương tiện lớn nhất để đại tộc Fujiwara sử dụng duy trì quyền uy chủ trì chánh trị là liên tục kết hôn với đế triều. Đại tộc Fugiwara cố thu xếp để các con gái họ trở thành vợ hay nàng hầu, cung phi các đế vương Nhật kế tiếp nhau; thật sự không cướp đoạt quyền nhưng cốt bảo vệ ngôi vàng. Không như Trần thủ Độ lập mưu cho Trần Cảnh lấy Lý Chiêu Hoàng , sau đó bắt Lý chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh năm 1226, cướp ngôi nhà Lý, lập ra nhà Trần.
Thời kỳ Heian có vài sự kiện lịch sử văn hóa Nhật đáng kể là khi Michizane, một nhiếp chánh khi hoang đế còn nhỏ tuổi sessho, lên chức nhiếp chánh khi hoàng đế đã lớn tuổi kampaku - độc tài dân sự , bị thất sủng từ chối làm đại sứ sang Tàu, lấy cớ là triều đại nhà Đường đang suy thoái , rồi sắp xếp để bải bỏ những chuyến Nhật tham quan ở Tàu. Vì dân Nhật có cảm tưởng là đã hấp thu hết mọi điều Tàu có thể cung cấp. Đã đến lúc, Nhật phải tiến tới hình thành toàn diện văn hóa riêng cho Nhật, căn cứ trên các tài nguyên đã nhận được. Thứ hai là nữ sĩ Murasaki Shikibu , thị nữ của nữ hoàng Akiko, đã dùng lối viết Nhật kana ( thay vì dùng cách viết hoàn toàn Tàu ) viết ra truyện nổi tiếng Genji Monogatari - Chuyện của Genji ( Arthur Waley, New York, dịch ra tiếng Anh năm 1955 ) vào năm 1008, được xem là công trình văn chương Nhật lớn nhấ . Khả năng mô tả những rung động con tim , tinh cảm sầu muộn khao khát thoáng đôi chút tinh thần Phật Giáo, những câu chuyện yêu đương của hoàng tử trẻ tuổi Genji thường được so sánh ngang hàng các truyện Jane Austen và Charlotte Bronte, các câu aware no mono - mọi điều ảm đạm , buôn bả của Genji rất giống câu Virgil , nhà văn thời Cỗ La Mã: Sunt lacrimae rerum et mentum mortalia tangun- Mọi điều là nước mắt và những câu chuyện yêu đương nhân sinh nghiệt ngã chấn động con tim .
Cuối thời kỳ Heian( 1158-1185) là lúc giới chiến sĩ nổi lên và chiến tranh Gempei xảy ra. Vào thời kỳ này, trọng tâm uy quyền chánh trị ngã từ phía hoàng đế và quí tộc triều đình qua các thủ trưởng các gia đình chiến sĩ, từ kinh đô Kyoto qua cách dinh trang trong nước, từ những ai có chức tước cha truyền con nối và cai trị dưới thể thức một chánh phủ dân sự kiểu Tàu qua những lảnh tụ các thị tộc, mới hay cũ, đã chiếm đất đai và quyền uy cho họ bằng đao kiếm và cánh tay mặt mạnh mẽ. Theo truyền thống bảo thủ Nhật, mọi đặc điểm cũ vẫn tồn tại - hoàng đế , quí tộc , chức tước và kinh đô cũ -, nhưng chúng dần dần biến thành những tượng trưng trống rỗng, vì quyền uy đã lọt vào tay kẻ khác. Chiến tranh giữa hai đại gia đương thời lấy tên của từ danh xưng Tàu " Gen " mà tiếng Nhật địa phương gọi là "Minamoto " và " Hei " , Nhật gọi là Taira. Phối hợp theo ngữ âm học thành " Gempei ". Thời kỳ này, Nhật vẫn gọi là Heinan, nhưng lảnh đạo đã rỏ rệt chuyễn từ đại tộc Fujiwara qua các gia đình chiến sĩ. Dù rằng cả hai thị tộc Taira và Minamoto chia sẽ quyền hành ở các tỉnh, Taira trở nên lực lượng ưu thế ở Nhật , nhờ ảnh hưởng của Taira Kiyomori, trở thành thủ trưởng thị tộc mình năm 1153 và không có đối thủ, mãi cho đến khi ông chết năm 1181. Kiyomori được cựu hoàng đế Go- Shirakawa nghe lời, đã dùng vị trí ông ở triều đình, gia sản giàu có tăng gia và ảnh hưởng thị tộc của ông ở vùng Biển Nội Điạ. Vài công trình ông xây dựng đáng kể ra là hải cảng, đào vét kinh và phát triễn thương mãi với Trung Quốc, những giá trị vĩnh viễn cho Nhật bổn.
Chiến tranh Gempei đầu tiên xảy ra tháng 9 năm 1180 ở Ishibashiyama, và trận thứ nhì vào mùa thu năm 1183. Một hư cấu truyện hiệp sĩ vang danh ở Nhât kể ra là chuyện Yoshinak bị giết sau khi chống cự mãnh liệt ở cầu Uji , năm 1180. Chiến tranh Gempei giữa các thị tộc là nguồn chánh cho các tiểu thuyết truyền ký làm vui thích nhiều thế hệ cử tọa Nhật ở sân khấu bi kịch phổ thông- Kabuki hay ở các bi kịch cỗ điển- No, tạo ra một lý tưởng dũng cảm và trung thành cho hết thảy mọi dân Nhật. Ảnh hưởng của lý tưởng này thấm nhuần suy tư và lịch sử Nhật, kéo dài đến thế kỷ thứ 20. Tình trạng Nhật cận đại , lẽ dĩ nhiên, thay đổi mau lẹ theo phát triễn kỷ thuật. Nhưng ít nhất , mãi đến gần đây, những tên tuổi nổi tiếng thời Trung Cỗ Nhật có lẽ đã hiện diện thân thiết hơn trong trí óc dân Nhật, còn hơn cả những tên tuổi tương tự ở trí óc dân Tây Phương hiện đại như Philippe II của Pháp , Frederic Barbarossa, HenryII của Anh Quốc , Eleanor of Aquitaine , Richard I Coeur -de -Lion ( vua nước Anh từ 1189 đến 1199, khi chiến tranh Gempei vừa chấm dứt ), Saladin ( kẻ chống đối vua này thời Thập Tự chinh- Crusade thứ III ) và Walther von der Vogeldweide ở Đức .
Đối với các chiến sĩ thời Trung Cỗ Nhật, đạo Zen - Thiền ( tiếng Tàu là Ch'an ) là đức tin tôn giáo phổ thông nhất. Zen căn cứ trên thủ lệ Phật giáo Ấn Độ thuở ban đầu tìm sự giải thoát trong mặc niệm. Nhưng ở Trung Quốc, Thiền hòa lẫn với nhận thức Lão giáo trên cá nhân , độc lập, hòa đồng với thiên nhiên và trật tự, làm ra môn phái Thiền - Ch'an. Nhà sư Eisai du nhập môn phái Rizai đạo Thiền đến Kamakura, bản doanh của Yorimoto năm 1191, khi Yorimoto còn sống. Đệ tử của Eisai là Dogen du nhập thêm một môn phái Zen khác môn phái Soto, năm 1227. Cả hai môn phái Zen này còn thịnh hành ngày nay ở Nhật .
Tinh thần hiệp sĩ - chivalry của chiến sĩ Nhật thường được liên kết với qui tắc danh dự hiệp sĩ Trung Cỗ Tây Phương . Điểm khác biệt lớn nhất là phẩm giá hiệp sĩ cho phụ nữ, không bao giờ có ở qui tắc Nhật cho đàn bà và những kẻ yếu đuối. Đông Phương Trung Cỗ Nhật không biết ca tụng tình yêu và thờ phụng tính trạng phụ nữ . Chính ngay ý tưởng nghiêng về nữ giới sẽ là một cú sốc lớn cho dân Nhật. Động cơ những cư xử dũng cảm và chịu đựng nhẫn nại không tưởng tượng nổi của hiệp sĩ Nhật có 2 nguồn : từ kiêu hảnh và danh dự và từ trung thành cho một lảnh chúa , còn trên trung thành đối với hoàng đế hay đối với tôn giáo. Hiệp sĩ Nhật thiếu khả năng của hiệp sĩ Trung Cỗ Tây Phương, nói lên sức chiến đấu cho một chính nghĩa lý tưởng.
Đối chiếu với sử Việt Nam chiến tranh Gempei giữa các "sứ quân " xảy ra sau cả thời Đinh Bộ Lĩnh( 924- 979 ) dẹp loạn 12 sứ quân, lên ngôi vua năm 968, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư , thuộc tỉnh Ninh Bình ngày nay. Sau khi vua Đinh Tiên Hoàng bị Đổ Thích ám sát, Lê Hoàn ( 941- 1005 ), lên ngôi vua năm 980, đánh thắng quân nhà Tống xâm lăng, ở trận đường thủy Bạch Đằng và ở trân đường bộ Ải Chi Lăng, chăm lo xây dựng và bảo vệ đất nước; đối nội chống cát cứ địa phương xây dựng " hạ tầng kinh tế " , chánh trị thống nhất ; đối ngoại nhu thuận nhưng cương quyết. Thời nhà Lý , sau khi Lý Công Uẩn ( 974- 1028 ) , quê ở tỉnh Bắc Ninh cũ, con nuôi của thiền sư Lý khánh Vân , em Thiền sư Vạn Hạnh ( có truyền thuyết cho ông là con của Vạn Hạnh ? ) lên ngôi vua năm 1010, dời đô qua Thăng Long ( Hà Nội ngày nay ) là con đẻ hay con tinh thần của các vị cao tăng xuất sắc , thực sự là con ưu tú của trung tâm kinh tế Cổ Pháp - văn hóa Lục Tổ Phật giáo Việt Nam thế kỷ thứ 10. Nhà Lý là thời Phật giáo cường thịnh nhất ở Việt Nam.
Con Dân Nước Việt là những người đặt Tổ Quốc lên bản vị tối cao, tối cao có nghĩa là trên tất cả mọi vật, kể cả tôn giáo, đảng phái, và cả chính bản thân mình.
No comments:
Post a Comment