Lịch sử văn hóa văn minh Nhật
(phần V)
GS Tôn Thất Trình
10 - Bành trướng, chủ nghĩa Tự do và Quân phiệt ( 1914- 1931 )
10 - Bành trướng, chủ nghĩa Tự do và Quân phiệt ( 1914- 1931 )
Dự toán Cách Mạng do các lảnh tụ thời Minh Trị và phản ứng ngoan ngoãn , nhiệt thành của dân gian Nhật đến năm 1912 là một thành công nổi tiếng. Nhật bổn đã đạt một sức mạnh quân sự đáng thán phục. Nền kinh tế Nhật vươn lên đến mức ngay nay gọi là điểm cất cánh - takeoff point . Làm việc nặng nhọc và tính cần cù đã giúp công nghệ Nhật tái đầu tư 15% vào cơ xưởng , máy móc những năm tốt đẹp , sau 1900, mà vẫn còn thừa để nâng cao đời sống xứ sở , nói tổng quát. Một phần tư thế kỷ trước Thế Chiến thứ I, là một thời kỳ khắp thế giới hăm hở dành nhau thuộc địa, nhượng địa, và những vùng ảnh hưởng ở Á Châu và Phi Châu. Nhật bổn hùa theo các cường quốc khác, chi tiêu rất nhiều về " tự vệ - quốc phòng - defense " từ 1890 đến 1914.Tổng số chi tiêu này tăng 4 lần ở Nhật và mỗi dân Nhật đóng góp tăng từ 60 xu Mỹ đến 1.75 đô la. Tuy rằng con số này nhỏ hơn Hoa Kỳ thời bấy giờ, mỗi đầu người Mỹ là 3.20 đô la và thua xa các đối thủ chánh cường quốc thế giới , Anh và Đức, nhưng cũng biểu hiện một cố gắng phi thường, nếu nghĩ đến sự kiện là Nhật chỉ mới bắt đầu chánh sách cận đại hóa sau năm 1868.
Khi Thế Chiến Thứ Nhất bùng nổ vào tháng 8 năm 1914, chánh phủ Nhật Okuma tức khắc vào phe Đồng Minh - Allies , tuyên chiến với Đức và gửi một lực lượng tấn công các cơ sở Đức ở Sơn Đông - Shangtung , không lý gì đến nền trung lập của Trung Quốc lúc đó. Anh hiệp lực chiếm hải cảng Tsingtao ( Hán Việt ? ) và 3 tháng sau Nhật đoạt mọi tài sản Đức ở Sơn Đông và đặt quân cảnh sát dọc đường xe lửa tỉnh này . Ở chiến dịch , lần đầu tiên máy bay quân sự được sử dụng . Lúc này Nhật cũng chiếm luôn các đảo Đức giữ là các quần đảo Mariana, Caroline và Marshall. Nhật cho là đúng thời cơ để Nhật cũng cố uy quyền ở lục địa. Năm 1915 , Nhật bí mật trao cho Viên Thế Khải - Yuan Shi Kai 21 Yêu Cầu gồm 5 khoản. Các khoản từ 1 đến 4 liên quan đến quyền giới hạn ở Sơn Đông, Mãn Châu, miền Trung thung lũng sông Dương Tử và bờ biển Trung Quốc. Khoản 5 lên quan đến bổ nhiệm người Nhật làm cố vấn sự việc chánh phủ Tàu, kiểm soát chung Cảnh Sát, vài điều kiện ảnh hưởng đến các kho võ khí và mua bán khí giới. Khoản cuối cùng này rỏ ràng vi phạm đến chủ quyền Trung Quốc, nên các cường quốc Tây phương, dù đang bận bịu chiến tranh cũng không thể bỏ qua. Khi Viên Thế khải cố tình thông tri cho báo chi thế giới biết 21Yêu Cầu này , Nhật đã phải buộc lòng rút lui những phần yêu cầu tranh luận nhất , nhưng cũng nhận được nhiều nhượng bộ đáng giá ở Sơn Đông, Nam Mãn Châu và Đông Nội Mông - Eastern Inner Mongolia . Nhật nhắm vào kinh tế trên nhữg yêu cầu này, nhưng hậu quả chánh trị rất quan trọng ở Trung Quốc: bổng nhiên Nhật trở thành kẻ thù đế quốc chánh của nước Tàu . Ở thỏa hiệp Lansing -Ishii giữa Hoa kỳ và Nhật bổn năm 1917, cả hai nước tôn trọng toàn vẹn lảnh thổ của Trung Quốc , nhưng cũng nhìn nhận, vì đất Nhật quen thuộc gần gủi nên Nhật có "quyền lợi đặc biệt " với Lục Địa Á Châu và Nhật có quyền bảo vệ .
Ở Hòa ước Versailles, Nhật thành công được Hội Quốc Liên - League of Nations, ủy quyền trên các đảo Thái Bình Dương nguyên thuộc Đức và được công nhận có quyền đặc biệt ở Sơn Đông. Nhật thất bại không ghi được một điều khoản bảo đảm bình đẳng chủng tộc - racial equality vào Minh ước Hội Quốc Liên, vì Úc Châu và California chống đối không cho di cư không phải là da trắng du nhập các xứ này. Tuy nhiên, Nhật được công nhận cuối chiến tranh là một trong "Ngũ Cường Lớn - Big Five " , có ghế ở hội đồng Quốc Liên và trổi dậy, tốn rất ít chi phí người cũng như tiền bạc, uy vũ hơn trước nhiều lắm. Lợi lộc chánh cho dân Nhật không phải là chánh trị mà là kinh tế. Nhật biết rỏ là đã tiến bộ nhiều từ Thế Chiến Thứ Nhất. Đặc biệt ở đội tàu thương mãi - merchant fleet, có những tàu chuyên chở lớn nhất thế giới, khi mà tàu buôn Anh , Đức bị đánh chìm nặng nề và tàu Mỹ mất mát lớn vì giao tranh tàu ngầm . Nhật cũng đã có khả năng rút ưu điểm ở ngành chế tạo mới, áp dụng những tiên tiến kỷ thuật. Chẳng hạn, Nhật khỏi cần đầu tư nhiều đóng tàu có động cơ pít tông chuyễn động qua lại - reciprocating engines tiên tiến thẳng đến các tuabin chạy hơi nước- steam turbines và động cơ diesel. Trong thế Chiến thứ Nhất, đội hải thương Nhật tăng lên gấp mười. Nhật đã chiếm phần lớn ngành thương mãi tơ sợi và khi dứt chiến tranh, Nhật là một quốc gia chủ nợ, số lượng vàng kim dự trữ tăng lên 6 lần trong 6 năm .
Nhật tham gia nhiều trên trường chính trị quốc tế. Đồng thời trường chính trị quốc nội cũng thay đổi nhiều. Nhóm nhỏ, tài ba nhưng vững chắc đầu sỏ chánh trị Minh Trị, nắm quyền cho đến khi Chiến Tranh Thứ Nhất bùng nổ. Khi Chiến Tranh chấm dứt, chánh quyền được phân phối rộng rải cho một loạt các tinh hoa Nhật, tỉ như thư lại, doanh nhân, các lảnh đạo quân sự, Hội đồng Cơ Mật, bậc quí phái, các trí thức. Thập niên 1920 , đặc biệt giữa đầu thập niên, là thời đại chánh trị tự do chủ nghĩa - liberal politics ở Nhật . Khuynh hướng này thể hiện ở thủ tướng Hara Kei ( sinh năm 1856 ), chủ tịch đảng Seiyukai và là thường dân - commoner đầu tiên làm thủ tướng Nhật. Ông giữ chức vị 3 năm cho đến khi bị một nhân viên hửu phái ám sát. Lúc đảng phái nắm chánh trị, các quyền lợi doanh nghiệp có khuynh hướng ngự trị, đôi khi với những phương tiện đáng ngờ vực, có nhiều ca tham nhũng bị khám phá ở hai đảng chánh Seiyukai và Kenseikai . Đảng này đổi tên thành Minseito năm1927 . Các doanh nhân chống lại những mưu đồ bành trướng quân sự vì chúng tốn tiền thu thuế và vì chúng đưa tới tẩy chay hàng hóa Nhật do các nhà quốc gia Tàu chủ trương. Đó là một phần cương lĩnh đảng tả phái Seiyukai năm 1912, đề nghị rút các lực lượng Nhật đang tiến đánh Tây Bá Lợi Á - Siberia với một cuộc viễn chinh Đồng Minh chống Bolshevik năm 1918 và đã ở lại vùng này với hy vọng mơ hồ có thêm lảnh thổ, sau khi quân Đồng Minh đã rút khỏi vùng. Thật ra, các nội các thập niên 1920, có vẽ thích hòa bình hơn chiến tranh và thận trọng hơn là phiêu lưu mạo hiểm. Có rất ít khác biệt ý thức hệ giữa các đảng phái. Dù các đảng nhận tài trợ từ khu vực đại doanh nghiệp, hội viên lại là các doanh nghiệp nhỏ và các điền chủ nông thôn , không có phương cách nào khác bày tỏ nguyện vọng chánh trị. Các công nhân nghèo đô thị không đủ tài sản đến mức có thể đi bầu cữ , cũng như không có kinh nghiệm hay sở vọng gì để tham gia chánh quyền. Nhưng con số công nhân tăng mau. Sản xuất nông nghiệp Nhật tăng gia 50% từ năm 1880 đến năm 1914 nay đã bắt đầu san bình, không gia tăng nữa. Năm 1920 chỉ còn 50% dân sống ở nông nghiệp và một số lớn nông dân di dời về đô thị. Năm 1913, 28 % dân Nhật sống ở thị trấn trên 10 000 người, so với 16% năm 1893. Sản xuất hàng hóa công nghệ tăng gấp ba từ năm 1914 đến năm 1929 .
Chính nghĩa của giới công nhân được các đảng mới chánh trị bênh vực. Oi Kentaro một nhà tiền phong cấp tiến sớm và ủng hộ Tôn Đật Tiên- Sun Yat Sen ( thiết lập Quốc Dân Đảng Trung Quốc ), lập ra đảng Tự do Đông Phương năm 1892 , nhưng đảng này chết yểu. Đảng Dân chủ Xã hội- Social Democratic party thiết lập năm 1901 dưới sự che chở phần lớn của Thiên Chúa Giáo, có một chương trình ngày nay tỏ ra hửu lý là giáo dục miễn phí - free education , ngày chỉ làm việc 8 tiếng đồng hồ, bải bỏ dùng nhân công con trẻ, bị cảnh sát giải tán ngay hôm sau ngày thành lập. Đảng Cọng Sản thành lập năm 1921 ( cùng một năm với đảng Cọng Sản Trung Quốc ) thất bại vì bè phái cũng như bị Cảnh Sát lưu ý, tự nguyện giải tán năm 1924, nhưng năm sau sống lại dưới hình thức bất hợp pháp và hoạt động bí mật. Nhưng chính Nghiệp đoàn Lao động - Labor Union, hơn là các đảng phái, mới thật giúp cho nhân công lao động Nhật bày tỏ nguyện vọng. Các năm chiến tranh giúp nghiệp đoàn thành hình ở nhiều ngành công nghệ. Năm 1929 , số hội viên lên đến 300 000 người. Đình công khởi sự năm 1919 , xảy ra nhiều lần suốt thập niên 1920. Nhiều mục tiêu nghiệp đoàn đạt được năm 1925, tỉ như phổ thông đầu phiếu cho nam thanh niên trên 21 tuổi, giúp số người đi bầu năm đó tăng thêm từ 3 triệu đến 14 triệu người .
Một trong những chánh trị gia xuất sắc của đảng tự do là Ozaki Yukio ( 1859- 1954 ). Khi còn là đô trưởng Tokyo , ông biếu cho thủ đô Hoa Thịnh Đốn những cây hoa hạnh đào - cherry tree nổi tiếng. Ông làm chánh trị liên kết với Okuma. Năm 1898, ông bị bắt buộc từ chức ở nội các vì trong một diễn văn , ông đề cập đến chủ nghĩa cộng hòa - republicanism ở Nhật. Các năm 1912- 13, ông lại đụng tới đề tài tế nhị về vị trí của hoàng đế khi ông lảnh đạo Seiyukai, đối lập thủ tướng Katsura ở Quốc hội. Ba người lảnh tụ theo Thiên Chúa giáo cấp tiến là Suzuki Bunji , Kagawa Toyohiko và Abe Isoo. Màu mè và nhiều nhân cách nhất là Kagawa . Con rơi của một bộ trưởng nội các và một cô đào geisha , ông trở thành mục sư Tin Lành , hoạt động ở các khu ổ chuột tại Kobe , sống trong một phòng bé tí xíu 5.6m2. Các tư tưởng xã hội du nhập vào đất Nhật phần lớn là qua các lảnh tụ Tin Lành. Kagawa giúp Suzuki thiết lập các nghiệp đoàn. Kagawa khởi sự viết văn và các truyện của ông trở thành sách bán chạy nhất - best sellers . Ông được mời nhận một chức vụ cao cấp chánh phủ, nhưng từ chối. Ông hăng hái hoạt động trong các hợp tác xã nông thôn và và thành lập một dây chuyền viện dưỡng bệnh bài lao, cho một số lớn công nhân mắc phải bệnh lao, vì các điều kiện thiếu vệ sinh ở các nhà máy .( Luật qui định không được thuê thiếu nữ làm việc quá tối đa 11 giờ một ngày ở các nhà máy bông vải, chỉ được ban hành ở Nhật năm 1916 ). Ông bị bỏ tù năm 1921, vì tham gia đình công thợ thuyền ở Kobe và một lần nữa bị giới quân sự giam giữ tại nhà, cuối đời ông, lần này vì muốn đề cao làm hòa vói Tàu ở Thế Chiến Thứ Hai . Nhưng khi bộ Tư Lệnh Tối Cao Nhật hoảng sợ vì hành động bạo hành quá xá của binh lính Nhật ( không ở hàng sĩ quan ) trong vụ "Hảm hiếp Nam Kinh - Rape of Nanking " năm 1937 , họ phải nhờ đến Kagawa đi viếng thăm và nói với binh lính về kỷ luật tự giác.
Tiếp theo Liên Minh Anh -Nhật tái hạn năm 1911, chấm dứt năm 1921, là Thỏa Ước Tứ Cường Anh , Pháp , Nhật và Hoa Kỳ dự liệu tôn trọng quyền của mỗi nước này ở Thái Bình Dương và tham khảo nhau khi có khủng hoảng. Sau đó một điều khoản cực trọng được 4 nước chấp thuận là giới hạn các tàu chiến - capital ship theo sác xuất 5 : 5 : 3 cho Anh, Hoa Kỳ và Nhật và 1.67 cho Pháp và Ý ( Nhật muốn sác xuất 10 :10 : 7, nhưng không được ). Kèm theo là giới hạn số tấn trọng tải các tàu chiến , đường kính súng đại bác, và bảo đảm không được nước nào xây cất căn cứ hải quân mới gần Nhật hơn là Singapore hay Hawaii. Một Hiệp Ước Chín Quốc Gia cũng đượcc ký kết năm 1922 theo chánh sách " Mở rộng Cửa - Open Door" và bảo đảm lảnh thổ toàn vẹn cùng độc lập hành chánh của Trung Hoa. Tuy nhiên, không có điều khoản nào buộc phải thực thi thích nghi các thỏa ước , hiệp ước vừa kể cả .
Năm 1923 , một trận động đất lớn có lữa cháy tiếp theo , phá tan ½ thủ đô Tokyo và gần toàn thể Yokohama ( vì nhà cửa Nhật làm bằng gỗ ). Hàng trăm ngàn người chết và thiệt hại vô vàn. Tokyo được tái thiết : trung tâm thủ đô xây lại bằng thép và bê tông : dinh thự chánh phủ , nhà Hát Lớn , thương xá … , một mô hình các thành phố, thị trấn Nhật bắt chước theo. Thời đại thập niên 1920 cũng đem lại nhiều thay đổi thời trang xã hội và các cách sống ở Nhật. Phụ nữ đạt thêm độc lập mới, khi đi làm thư ký và nhân viên cơ sở công, tư. Gia đình Nhât cũng thay đổi , vì cha bớt độc tài , và chồng tỏ ra biết điều hơn. Vài nam nhân Nhật sửa soạn xem vợ ngang hàng mình. Có sân gôn - golf và trượt tuyết - skiing cho dân Nhật giàu và bóng chùy - baseball cho mọi người Nhật. Sách vỡ ngoại quốc được dịch ra và phổ biến nhiều hơn bất cứ lúc nào trước đó , và dân Nhật trở thành dân đọc báo hạng nhất thế giới. Nhạc hòa tấu và nhạc cổ điển Tây phương rất thịnh hành, trong khi phim xi nê, nhạc Jazz, các tiệm cà phê ( đúng ra là quán rượu ) mọc như nấm, phục vụ cho sở thích các moga ( thiếu nữ tân thời ) và các mobo ( Nam thanh niên tân thời ) .
Giới thanh niên mạ vàng này làm các nông dân bảo thủ và các sĩ quan Nhật trẻ tuổi và tha thiết yêu nước không còn chịu đựng nổi nữa. Đối với nhiều dân Nhật , hành vì các thanh niên nam nữ là dấu hiệu suy đồi , những phương cách độc đoán cũ bị thất sủng phải bỏ đi, lọt sàng cho chủ nghÌa tự do và quốc tế thay thế . Họ cũng cảm giác là những ý kiến hoa mỹ các chính trị gia các đảng tung ra , không thích hợp để cố vấn hoàng đế. Vậy chớ ai cố vấn tốt đẹp hơn cho Hoàng đế, ngoài Quân Đội ? Vì Quân Đội là nơi cất giữ các đức tính võ sĩ samurai xưa cũ, và chỉ có quân đội mới duy trì thuần khiết được lòng trung thành thời xưa trên cá nhân hoàng đế , theo đúng yamato - damaashii , "Tinh thần Nhật cỗ - The Spirit of Old Japan" . Hoàn cảnh gia đình và thời cơ của các sĩ quan trẻ tuổi và các lính thông thường là một thừa tố đẩy mạnh quyền lực gia tăng của giới quân nhân. Các sĩ quan trẻ đa số là con các sĩ quan, các tiểu điền chủ hay các nông dân . Họ bắt đầu huấn luyện quân sự nghiêm khắc, ít nội dung trí thức ở tuổi mười bốn và không có chút nào hiểu biết những nguyên tắc dân chủ hay chánh phủ đại điện dân , một điều hoàn toàn mới mẽ đối với Nhật. Binh lính từ nhà nông dân , khác với dân trẻ thành thị đều mong được gọi tòng quân. Quân đội cung cấp cho binh lính một đời sống vật chất tốt đẹp hơn, và an ninh xúc động dưới một uy quyền thoải mái hơn là một Đại Thẩm Tra Giáo Hội - Grand Inquisitor của nhà văn Nga Dostoevski. Là nông dân họ là con số không - zêrô. Khi là lính của thiên hoàng , xuất thân từ Nữ Thần Mặt Trời, họ cảm tưởng có một tước hiệu riêng biệt. Bỏ thây cho đất nước không phải là gian khổ mà là vinh quang. Không mấy khác các lính La Mã cỗ xưa cảm tưởng " Dulce et decorum est pro patria mori - Ngọt ngào thay , thích đáng thay, khi chết cho tổ quốc ". Sĩ quan cao cấp Nhật cũng có cảm giác như vậy, nhưng với lý do khác . Quân đội sẽ không còn nữa nếu chánh sách tự do tiếp tục. Năm 1925 , quân đội chỉ còn 4 sư đoàn trong số 21 sư đoàn cũ .
Quân đội tăng cường ảnh hưởng , khi tướng bá tước Tanaka Giichi lên làm thủ tướng . Tuy nhiên ông lựa chọn một chánh sách Trung Hoa không sáng suốt, cố chận đứng quân Tưởng Giới Thạch Bắc tiến của chánh phủ Quốc dân đảng và bị bắt buộc phải bỏ cố gắng này . Rồi các sĩ quan quá khích Nhật ở Mãn Châu làm ông bối rối to. Họ giết chết lảnh chúa Chang tso Lin ( Hán Việt ? ) bằng cách làm nổ tan chuyến xe lữa chở lảnh chúa với ý tưởng là con lảnh chúa thống chế Trương Học Lương- Chang Hsueh Liang sẽ dễ dàng để Nhật xâm chiếm Mãn Châu. Tanaka đòi hỏi phạt kỷ luật các sĩ quan này , nhưng Bộ Tư Lệnh - Chỉ Huy Tối Cao Nhật bỏ qua, khiến thủ tướng mất mặt, phải từ chức . Nhiều tổ chức bí mật loại quốc gia cực đoan mỗi ngày mỗi hoạt động gắt gao thêm . Hội biết đến nhiều nhất là Hội Hắc Long - Black Dragon Society , tên Tàu của sông Amur. Tên nhấn mạnh đến Mãn Châu và một trong những đối tượng thú nhận là thúc đẩy dân Tàu rối loạn để cho quân đội Nhật có cớ tràn vào Mãn Châu, tái lập luật pháp và trật tự.
Trong những năm từ 1929 đến năm 1932, Nhật bị nhiều vấn đề cam go ám ảnh, cho nên các tay quá khích quân đội cảm tưởng là cần phải giải đáp tuyệt vọng. Khủng hoảng kinh tế là một hiện tượng toàn cầu , nhưng tại Nhật lại có những hậu quả lạ lùng. Xuất cảng giảm 50 % hai năm sau , năm 1929 . Đau khổ lớn nhất cho nông dân. Giá tơ hạ 65% trong một năm , 1929- 1930 . Lợi tức công nhân trụt từ chỉ số 100 năm 1926 xuống còn 69 năm 1931 . Nông dân phải ăn võ cây và bán con gái cho các nhà thổ (chứa đĩ điếm ) ở thị thành. Dân chúng nổi giận nhắm về các zaibatsu, đồng hóa với các lảnh chúa trong đầu óc họ. Đau khổ của các gia đình nông dân cũng lớn lao trong giới sĩ quan quân đội, rất nhiều sĩ quan xuất thân ở nông thôn . Họ có ý kiến là nhờ lòng trung thành và danh dự họ có thể vạch ra cho Nhật ở lục địa Á Châu một đế quốc , độc lập với phần thế giới còn lại, bảo đảm đời sống vững bền cho nông dân và cho công nhân thành thị Nhật. Những sự cố xoáy lốc những năm trước ( đặc biệt ở Ý của phát xít Mussolini ) , tuồng như cống hiến cho các nhà yêu nước Nhật lý tưởng này, những dấu hiệu không lầm được chính họ là những kẻ cứu quốc , cứu xứ sở ra khỏi lầm than .
Thủ tướng Inukai làm những biện pháp mau lẹ vượt qua những ảnh hưởng của khủng hoảng . Ông rút Nhật ra khỏi kim bảng vị một lần nữa. Xuất cảng tăng lên mau. Nhật bắt đầu phục hồi mau lẹ hơn các nước đã công nghệ hóa. Nhưng khuynh hướng không trở lui lại được nữa , vì chuyễn hướng Nhật về phía chủ nghĩa quân phiệt đã bắt rễ chặc rồi .
Trong thời mạt vận nhà Nguyễn Phước bị Pháp tấn công không chống nổi, đời vua Tự Đức, có một trí tuệ lỗi lạc, tư duy trên tầm thời đại là Nguyễn Trường Tộ ( 1828 - 1871 ), người Nghệ An theo Cơ Đốc Thiên Chúa giáo, để lại một số di cảo, viết hàng loạt điều trần , luận văn , tờ bẩm trình nhiều kiến nghị có tầm chiến lược, nhằm canh tân đất nước, tạo thế vươn lên cho dân tộc giữ nền độc lập một cách khôn khéo mà vững chắc , về mặt kinh tế, văn hóa xã hội, ngoại giao, quân sự v.v… , nhưng triều đình nhà Nguyễn Phước nói chung cũng như các nho sĩ , văn tânn thời ấy chưa hiểu nổi luồng tư tưởng của ông, chưa coi trọng đúng mức những kiến nghị cách tân của ông. Dù rằng vua Tự Đức có lúc triệu ông " vào kinh để hỏi việc lớn " và phái ông sang Pháp thuê thầy thợ , mua sách vở , máy móc, định du nhập kỷ thuật ( năm 1866- 1867 ) .
Nhưng trên phương diện cứu nước, yêu nước , cách mạng tư tưởng , chánh trị ,văn hóa … thời bấy giờ lớn nhất lại là của " Ông già Bến Ngự " Phan Bội Châu , hiệu Sào Nam , quê làng Đan Nhiễm , huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An ( 1867- 1940 ) . Cụ Phan thiết lập ra hội Duy Tân năm 1904 , chọn Kỳ Ngoại Hầu Cường Để làm minh chủ , chủ trương bạo động và nhờ Ngoại viện ( Nhật ? ) khôi phục nền độc lập . Đầu năm 1905, ông sang Nhật và trở về dấy lên một phong trào Đông Du vào các năm 1905- 1908 . Các tác phẩm của ông tuyên truyền cách mạng như Việt Nam vong quốc sử, Hải Ngoại huyết thư … vang danh khắp nước . Lảnh đạo phong trào Đông Du, ông tổ chức Công Hiến Hội , tập hợp 200 học sinh Việt sang Nhật học tập chánh trị , khoa học , quân sự. Tháng 3 năm 1909, tổ chức Đông Du bị giải tán và cụ Phan bị Nhật trục xuất. Khi cuộc Cách mạng Tân Hợi thành công ( 1911) Phan Bội Châu trở lại Trung Quốc tổ chức Việt Nam Quang Phục Hội , tôn chỉ duy nhất là đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam và thành lập nước " Cộng Hòa Dân Quốc Việt Nam" . Giữa năm 1924, phỏng theo Trung Quốc Quốc Dân Đảng của Tôn Trung Sơn ( Tôn Văn , Tôn Dật Tiên ), Phan Bội Châu đã cải tổ Việt Nam Quang Phục hội thành Việt Nam Quốc Dân Đảng . Ngày 30 tháng 6 năm 1925 , trên đường từ Hàng Châu về Quảng Châu , vừa đến ga Thượng Hải thì ông bị thực dân Pháp bắt cóc đem về nước. Chúng âm mưu thủ tiêu Phan Bội Châu , nhưng việc bại lộ, nên phải đưa ra xử ở tòa đề hình Hà Nội . Trước phong trào đấu tranh bải khóa , bải công ,bải thị rầm rộ khắp nước , thực dân Pháp bối rối phải tuyên bố tha bổng cụ Phan, nhưng bắt cụ Phan phải về ở Huế, không được đi bất cứ đâu. Từ năm 1926 trở đi, Phan Bội Châu phải bỏ dỡ cuộc sống hoạt động Cách Mạng , nhưng dù sống " cuộc đời cá chậu -chim lồng " , cụ vẫn làm thơ nói lên trách nhiệm của người dân đối với nước… ở các tác phẩm như Nam quốc dân tự trị, Nữ quốc dân tự trị, Bài thuốc chửa bệnh dân nghèo, Cao Đẳng Quốc dân, Luân lý vấn đáp, Lời hỏi Thanh niên … , ngoài những công trình biên khảo đồ sộ như Khổng học đăng , Phật học đăng, Xã hội chủ nghĩa , Chu dịch , Nhân sinh triết học …
Từ đầu thế kỷ thứ 20 đến các năm 19 20- 30 , văn học Việt Nam có nhiều biến chuyễn lớn. Có hai đặc điểm cơ bản : - hàng loạt cuộc cách tân sâu sắc , nhiều thể loại đem đến cho nền văn học dân tộc bộ mặt hiện đại . - nhịp điệu phát triễn mau lẹ nhiều thành tựu phong phú , tuy đã để lại không ít yếu tố phức tạp tiêu cực. Giai đoạn đầu từ những năm đầu thế kỷ đến 1920 là phong trào sáng tác phục vụ Cách mạng theo đường lối tư sản . Lảnh tụ Phong trào là những nhà trí thức Hán học ( Phan Bội Châu , Phan Châu Trinh , Ngô Đức kế , Huỳnh Thúc Kháng… ) nhờ đọc Tân Thư (Trung Quốc) , khuynh hướng cải cách tư sản Trung Quốc , mô phỏng tư tưởng cách mạng tư sản Âu Mỹ , dùng ngòi bút viết nên những bài văn thơ tuyên truyền cổ động, lời chính luận vừa hùng hồn , đanh thép , vừa chứa chan tâm huyết . Nhưng tinh thần " duy tân" của họ nặng về quan điểm chánh trị, xã hội học thuật hơn là thẫm mỹ . Họ thường viết bằng chữ Hán . Từ năm 1920, 1930 trở đi, những cuộc cách tân văn học , ảnh hưởng của Pháp , thật sự thành phong trào sôi nổi. Hai cuộc khai thác thuộc địa của Pháp trước và sau Thế Chiến thứ Nhất (1914-18 ) gây biến đổi trong cơ cấu kinh tế , xã hội Việt Nam. Từ các đô thị, thị trấn, một công chúng mới xuất hiện : tư sản , tiểu tư sản , thợ thuyền , dân nghèo .. Các phương tiện phổ biến văn chương bằng kỷ thuật ( nhà in , nhà xuất bản , báo chí … ) góp phần đẩy mạnh đổi mới văn hoc. Công cuộc đổi mới này bắt đầu từ sự hình thành các thể văn xuôi quốc ngữ đã được thử nghiệm lẻ tẻ, từ cuối thế kỷ thứa 19. Sau năm 1920, từ Nam ra Bắc đã xuất hiện nhiều cây bút có tài ( Hồ biểu Chánh , Hoàng Ngọc Phách, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học , Tương Phố , Đông Hồ.. ). Từ năm 1930 hầu hết các thể văn xuôi đều được hiện đại hóa với nhiều tài năng xuất sắc ( Tam Lang , Vũ Trọng Phụng , Xuân Diệu, Nguyễn Tuân , Nhất Linh, Khái Hưng, Ngô Tất Tố , Nguyên Hồng , Đổ Đức Thu, Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nam Cao, Thanh Tịnh , Hồ Dzếnh , Tô Hoài , Bùi Hiễn… ) . Sự đổi mới thi ca gắn với sự ra đời cái "tôi" cá nhân bắt đầu bằng Phạm Thái , Hồ Xuân Hương , Nguyễn Công Trứ , Đào Tấn … ( thế kỷ thứ 19 ) , những vùng vẫy mạnh mẽ hơn trong những vần thơ phóng túng , lãng mạn của Tản Đà ( trước , sau 1920 ). Cuối cùng sự giải phóng ra khỏi hệ thống qui ước của thi ca cũ với một thế hệ nhà " Thơ Mới " rất trẻ và tài ba : Thế Lữ, Huy Thông, Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính, Tố Hửu , Lưu Trọng Lư ….
Con Dân Nước Việt là những người đặt Tổ Quốc lên bản vị tối cao, tối cao có nghĩa là trên tất cả mọi vật, kể cả tôn giáo, đảng phái, và cả chính bản thân mình.
No comments:
Post a Comment