*** QUYỀN LỢI TỔ QUỐC & DÂN TỘC LÀ TRÊN HẾT *** KHAI DÂN TRÍ, CHẤN DÂN KHÍ, HẬU DÂN SINH ***

2011/03/16

Lịch sử văn hóa văn minh Nhật (phần VI)

Lịch sử văn hóa văn minh Nhật
(phần VI)
GS Tôn Thất Trình
Xung đột đã được so sánh với sự cố Mãn Châu , nhưng xung đột mới không dự tính trước, ít nhất  là ở mức cao cấp, vì chức quyền Nhật hy vọng dễ dàng chiếm  miền Bắc Trung Quốc, không cần  quân đội giao tranh. Tính toán Nhật lầm to, cuối cùng  rất tai hại. Khi đã xảy ra, Nhật gửi thêm nhiều quân tiếp viện. Nhưng chỉ huy trưởng Tàu ở Bắc Kinh  chống trả mảnh liệt,  dù nguồn lực quân sự của ông yếu kém. Nhật cũng tiến vào Thượng Hải  và ở đây cũng gặp  chống cự lớn lao. Chiến tranh giới hạn, nếu gọi đó là chiến tranh; Bộ Chỉ Huy Cao Cấp Nhật hy vọng  sẽ thắng mau lẹ, và đó cũng tỏ ra là nhận định sai lầm. Cả hai bên  bố trí một cuộc chiến đấu lâu dài . Như vậy Thế Chiến Thứ Hai thật sự không phải bắt đầu năm 1941, khi Trân Châu Cảng - Pearl Harbor bị Nhật tấn công, đưa Hoa Kỳ kiên quyết  vào  vòng chiến tranh.  Cũng không phải năm 1939, khi Anh Quốc và Pháp chống cự lại Hitler mà là năm 1937,  khi Trung Quốc quyết định là  không  cam chịu nhu mì Nhật xâm lăng .

       Điểm khôi hài là  cố vấn  quân sự ngoại quốc cho Tưởng Giới Thạch - Chiang Kai Shek là các sĩ quan nước Phổ, đồng minh với Nhật, kẻ thù của Tàu. Họ đã phục vụ tốt đẹp Trung Quốc , đề cao một chiến lược Tưởng Giới Thạch  làm theo: có nghĩa là trao đổi lảnh thổ mênh mông của Tàu với thời gian,  trong khi chờ đợi đồng minh  đến viện trợ. Trung Quốc tránh những đụng độ lớn  với lực lượng Nhật mạnh hơn và một tháo lui chiến lược, tuần tự rút về các núi non tỉnh Tứ Xuyên - Szechuan . Trong cuộc tháo lui, Trung Quốc thực hiện những cố gắng phi thường  cứu vớt cả vật liệu lẫn nhân công. Các xưởng tơ sợi và  các kho võ khí ở Thượng Hải  và các thị trấn khác ở bờ biển  được tháo gỡ, máy móc chuyên chở sâu vào nội địa bằng xe bò , thuyền trên sông  hay sau lưng các cu li theo một dây chuyền không bao giờ chấm dứt. Sinh viên và giáo sư mang theo sách, dụng cụ labô và tái lập các viện đại học ở những  khu tạm trú  cách đó  trên hàng ngàn dặm Anh.

       Nhật không bao giờ  đủ khả năng  để chiếm toàn thể nước Tàu. Nhật có thể thả bom, nhưng  bộ binh không tiến sâu nổi vào các  tỉnh núi non miền  Tây Nam Tàu để thắng hẳn. Nhật tràn khắp những vùng  chánh yếu của Tàu, các thành phố, thị trấn lớn  và các đường giao thông. Đây là một cuộc chiến tranh tốn kém quá sức cho cả Tàu lẫn Nhật. Các lực lượng du kích phần lớn do Cộng Sản tổ chức hoạt động ngoài Diên An - Yenan vùng Tây Bắc Tàu, thường xuyên tấn công và  đánh bại các  đồn trú hẻo lánh Nhật, làm gián đoạn giao thông và thành công cung cấp cho mình   xe vận tải, súng ống, đạn dược,  cả đồng phục từ các đơn vị thù địch nhỏ  họ đã đánh bại.  Đặc biệt Cọng sản Tàu  thành công tổ chức kháng chiến   và hệ thống tình báo  giữa giới nông dân Tàu, rút thêm kinh nghiệm  tổ chức cộng đồng và kiểm soát  cấp cơ sở địa phương, sau này tỏ ra  có giá trị vô cùng cho chính  nghĩa cọng sản,  khi chiến tranh Trung - Nhật kết thúc. Nhờ viện trợ Hoa Kỳ và Anh  đến Trung Hoa Tự Do, tương đối nhỏ nhưng số lượng đáng kể ; trước tiên  theo Đường Miến Điện -  Burma Road , và khi đường này bị đóng cửa , theo không vận  từ Ấn Độ  " trên cái bướu"   núi non hiểm trở, Trung Quốc  đủ khả năng chống giữ và dồn Nhật vào thế bí, bất phân thắng bại.
       
     Một khi chiến dịch đánh Tàu đã tung ra năm 1937 , Quân đội ( Bộ Binh )  Nhật được toàn dân ủng hộ và có khả năng  thu hoạch mọi dàn xếp Quân đội mong muốn.  Luật Động Viên Quốc Gia  tháng 11 năm 1938 cống hiến cho chánh phủ   một quyền uy rộng rải  trên kiểm soát  giá cả và lương bổng, một dự án đăng ký   và tiết kiệm bắt buộc, chỉ đạo vật liệu và lao động và chánh phủ chiếm hoạt động ở vài ngành công nghệ.  Một tổ hợp  Phát triễn Công Nghệ Mãn Châu  với tư bản chánh phủ được thành lập năm 1938 và những cung cấp thêm than đá, sắt và hóa chất cũng được thành lập qua Tổ hợp Phát triễn Bắc Trung Hoa, hai năm sau. Các đảng chánh trị bị nuốt chửng năm 1940,  qua một  loại  liên kết  thời chiến, tên gọi là  Hiệp Hội  Phụ Giúp Cai trị của Thiên Hoàng - Imperial Rule Assistance Association . Năm đó,  nội các  trở thành gần như một vô dụng vật, những quyết định trọng yếu  nay do  một Hội đồng Liên lạc - Liaison conference  thủ tướng , bộ trưởng chiến tranh, bộ trưởng hải quân, và các tướng Bộ Tổng Tham Mưu tham dự. Các bộ trưởng khác chỉ tham dự khi được mời. Trên những cố găng  thoát khỏi thế bí Chiến Tranh Trung - Nhật, chánh phủ Nhật dụ được một chính khách Tàu đủ uy thế  cầm đầu một chánh phủ bù nhìn ở Bắc Kinh. Uông Tinh Vệ - Wang  Chinh Wei  nhận đóng vai trò này năm 1940 , nhưng không đem lại  cho Nhật ảnh hưởng mong muốn. Trung Hoa không giảm bớt kháng cự và bóng ma Nga hiện ra sau lưng Nhật.  Có  một nhóm lảnh đạo ở  Tokyo   muốn điều đình với Anh và Hoa Kỳ  để cân bằng Nga đe dọa. Tuy nhiên  Matsuka Yosuke, nay là ngoại trưởng nội các,  của thủ tướng Konoe  Fuminaro lại hoàn toàn  tin chắc  là Đức sẽ thắng cuộc cuối cùng ở Âu Châu.  Ông có nhiều chứng cớ  vào năm 1940 để tin như vậy.  Từ 10 tháng 5 đến 4 tháng 6, Đức  thành công vĩ đại  trong nhưng  tấn công đột ngột và dữ dội - blitzkrieg  vào  Hà Lan , Bỉ và Pháp, mà đỉnh cao là Đồng Minh rút khỏi Dunkerque - Dunkirk . Chiến trận trên không ở Anh Quốc tiếp theo và và kéo dài từ tháng 8 đến  tháng 11 năm 1940.  Nhưng  Goering và không quân Đức - Luftwaffe lại thất bại không  phá tan được Không Quân Hoàng Gia Anh - Royal Air Force, không dọn đường được cho xâm  chiếm các đảo Anh Quốc, có cơ  chấm dứt chiến tranh. Matsuka bốc đồng,  không chờ đợi đủ lâu.  Ông để Nhật ký kết  Hiệp ước Ba Nước - Tripartite  Pact  với Ý và Đức, cũng vào tháng 9 năm 1940 . Tháng 11, khi trận chiến Anh Quốc nghiêng về phía Anh, có lẽ các bạn đồng nghiệp của ông sẽ không cho ông ký kết Hiệp Ước này đâu.  Tháng 4 năm 1941,  một thỏa hiệp trung lập   giữa Nhật và Nga được ký kết - một thắng lợi của Matsuoka- và Nhật cảm tưởng dễ thở hơn.  Nhưng không được bao lâu cả . Vì tháng 6  năm đó, Hitler  bất thình lình tấn công Nga , không báo trước cho Nhật. Nhật phải đối diện lựa chọn giữa Hiệp Ước  Ba Nước với Đức  và thỏa hiệp trung lập ký với Nga. Nhật quyết định theo thỏa hiệp với Nga. Ngoại trưởng Matsuoka thân Đức, bị gạt bỏ khỏi nội các .                                                         
           Tình trạng kinh tế  nay làm các nhà lảnh đạo Nhật  lo ngại. Nhật đã tích trữ lớn  suốt thời kỳ Trung Nhật chiến tranh, nhưng  cung cấp dầu lữa  khẩn thiết lại không đủ. Năm 1940,  Hoa Kỳ  cấm xuất cảng  vài vật liệu chiến lược qua Nhật, truớc tiên là sắt vụn , rồi thép và cuối cùng là dầu lữa . Để bảo đảm cung cấp dầu lữa ,  Nhật gửi hai phái doàn đến gặp Hà Lan  đang đô hộ Inđônexia, nhưng  Hà Lan chần chừ  và chỉ thỏa thuận cung cấp một số lượng nhỏ. Dù tình thế khẩn cấp, Hải quân Nhật  khuyên cẩn trọng. Nhật chưa sẳn sàng gây chiến với Hà Lan, Vương quốc Anh  và Hoa Kỳ đánh chiếm  dầu  lữa bằng võ lực . Đô đốc Nomura Kichisaburo được gửi đến Hoa Kỳ điều đình. Nhưng bộ binh quân đội Nhật không kiên nhẫn và  quá tự tín.  Một quyết định  xâm lăng Đông Nam Á  tháng 7 năm 1941;  Pháp Vichy ( thời thống chế Petain  ở Đông Pháp là đô đốc De Coux )  buộc lòng phải thỏa thuận.  Khi Nhật gửi quân đến, Hoa Kỳ tức khắc  đông giá mọi tài sản Nhật và  thương mãi giữa hai nước ngưng hẳn.

         Căng thẳng giữa phe điều đình và phe chiến tranh ở Nhật dâng cao .Thủ tướng Konoe cố sức  giữ thăng bằng. Nhưng tháng 10 năm 1941, Konoe  bị bắt buộc phải từ chức và  tướng Tojo - Đông Điều ( Mỹ mệnh danh là " Dao Cạo - Razor ") Hideki  trở thành thủ tướng ngày 17 tháng 10 . Tojo, một quân nhân từ đầu đến cuối,  bắt đầu ngay tổng động viên  và làm kế họach chiến lược chiến tranh. Những điều khoản Hoa Kỳ đề nghị  ở hội đàm Nomura quá khắt khe  cho Nhật - Nhật phải rút hết quân  ở Đông Dương, Trung Quốc và Mãn Châu.  Ngày mồng 1 tháng 12, Hội đồng Thiên Hoàng, một lần nữa bỏ phiếu cho phép tuyên chiến với Hoa Kỳ , nếu Nhật thấy cần thiết. Tổng thống  Roosevelt kêu gọi Nhật hoàng lần cuối cùng,  nhưng thông điệp của ông không bao giờ tới nơi cả. Các phi cơ Hải quân Nhật  bất thình lình tấn công Trân Châu Cảng sáng sớm chủ nhật  ngày 7 tháng 12. 
       
     Hải quân  Nhật đã thao diễn  nồng nhiệt  tấn công chớp nhoáng Trân Châu Cảng ở vịnh Kagoshima. Tấn công này theo quan điểm Nhật  là một thắng lợi sáng chói, nhất là khi  Hải Quân Hoa Kỳ  không để ý tới những cảnh báo radar  là các phi cơ Nhật sắp đến. Bảy tàu chiến, vô số tàu khác,  và phân nữa số phi cơ Hoa Kỳ   tại Hawaii bị phá hũy  hay thiệt hại nặng, thành vô dụng.  Tấn công tương tự xảy ra ở Phi Luật Tân , Hồng Kông  và Mã Lai.  Ở Phi Luật Tân, phi cơ   Hoa Kỳ đang  đậu ở  sân bay, ngay hàng thẳng lối  và ngoài khơi Singapore  chiến hạm  Prince of Wales  và tuần dương hạm  Repulse  đang chạy không có phi cơ bảo vệ , bị đánh chìm thảm hại.  Không còn hải quân Hoa Kỳ đe dọa, Nhật  chuyễn quân mau lẹ  vào toàn thể khu vực Thái Bình Dương.  Hồng Kông thất thủ vào ngày Giáng sinh; Manila ngày 2 tháng giêng 1942, tuy Bataan chống giữ đến  tháng 4 và Corregidor đến tháng 5.  Bảo vệ Singapore  hướng về phía biển,  vì rừng rậm ở sau lưng được xem là an toàn  và bất khả xâm phạm. Nhưng Nhật đã huấn luyện quân lính ở rừng rậm  Thái Lan  và chiếm Singapore  từ lảnh địa  ngày 15 tháng hai. Nam Dương - East Indies Hòa Lan thất thủ đầu tháng 3 và Miến Điện cuối tháng 4. Trong vòng 6 tháng kế tiếp, Nhật sửa soạn kỷ càng  tiến đánh Úc Châu. Nhưng nay các đường giao thông đã quá xa xôi  và Hoa Kỳ đang xây dựng một  cuộc phản công.

             Hải chiến Biển San Hô - Coral Sea , Nhật - Mỹ huề nhau , nhưng  ảnh hưởng là  Nhật không còn tấn công Úc được nữa. Trận hải chiến Midway  tháng 6 năm 1942,  thắng lợi nghiêng về phía Hải quân Hoa Kỳ, vì Hoa Kỳ đã được cảnh báo Nhật tấn công và đủ khả năng  đánh chìm 4  hàng không mẩu hạm Nhật,  làm tai hại nặng nề  cho không quân Nhật. Hải quân Nhật  bị hạ nhục lớn vì thất trận Midway , xoay chiều cuộc chiến , nhưng  họ chỉ cho Thủ tướng Đông Điều biết thất bại, một tháng sau mà thôi.  Trên Đất liền, lực lượng Đồng Minh dần dần tái chiếm New Guinea và sau nhiều  chiến đấu cay đắng và kéo dài, Đồng Minh tái chiếm Guadacanal,  tháng 2 năm 1943 . 

         Kinh tế Nhật  thực hiện sản xuất phi phàm.  Các công ty công nghệ  đã thỏa mãn nhu cầu chế tạo  dụng cụ máy móc nội địa,  trước khi khởi đầu chiến tranh năm 1941.  Bằng cách phân tán  sản xuất  thành những xưởng nhỏ , theo kiểu Nhật điển hình, và hoạt động  15 giờ một ngà ,  công nghệ chế tạo máy bay  đã đủ khả năng trong thời chiến tranh làm ra  62 400 phi cơNhưng nguyên liệu  đã khan hiếm .  Khối "  Thịnh Vượng Chung Đại Đông Á- Gresater East Asia Co- Prosperity Sphere " , Á Châu cho Dân Á ,  dưới quyền Nhật lảnh đạo, là một cuộc kêu gọi  tuyên truyền lớn dài , nhưng thực hiện thấp kém, ngắn ngũi, khi dân gian Đông Nam Á   và các xứ khác  tìm thấy là lợi lộc tăng thêm cho Nhật; người Nhật điều hành công việc  thiếu tế nhị  và  hách dịch. Cung cấp dầu lữa, cao su, thiếc, các vật liệu thiết yếu cho chiến tranh không chở đến Nhật  đủ dùng. Hơn nữa , tàu ngầm  Mỹ  hoạt động tăng thêm , và dù có nhu cầu  khẩn thiết cho chiến trường  Châu Âu , hàng hải Nhật  bị đánh đắm,  mất mát thêm nhiều . ( tính  đến khi dứt chiến tranh , Nhật đã mất đi 75 % thương thuyền , có người ước lượng đến 90 % ).  Thực sự những ước lượng ban đầu   các nhà chiến lược hải quân Nhật  đã tính toán gần đúng.  Họ đã báo cho chánh phủ Nhật  lúc mới khởi sự là chiến tranh  có thể thắng , nếu chiến dịch thi hành mau lẹ , nhưng họ không bảo đảm  sẽ duy trì được cố gắng quá 18 tháng. Một trong những thành quả của những thắng trận  đầu tiên mau lẹ và quyết định là huyền thoại  ưu thế da trắng - white supremacy  nay đã nổ tan.  Nhật làm nhục, cố tình khinh bỉ, ác độc nhẫn tâm tù binh bại trận  Hà Lan, Anh,  Mỹ trước mắt dân chúng địa phương , ở toàn thể vùng Thái Bình Dương. Sau vụ này và sau  3 năm tuyên truyền  mảnh liệt chống thực dân thuộc địa, các chánh quyền thuộc địa cũ không  còn khẳng định lại được nữa  quyền lực của mình  tại vùng này hay cả những nơi  khác nữa, khi chiến tranh chấm dứt .

       Năm 1943, áp lực trên Nhật dần dần nặng nề thêm lên.  Sau vài tháng đánh nhau , lực lượng Hoa Kỳ  chiếm Saipan quần đảo Marianas  tháng 7 năm 1944 , và từ đó  máy bay đã có thể thả bom trên đất Nhật . Các nhà máy Tokyo  và Nagoya bị  dội bom  khủng khiếp . Khi Mỹ chiếm Okinawa  tháng 6 năm 1945 , cả hai bên đều tổn thất nặng , Mỹ dội bom tăng thêm nhiều . Hầu như  mọi thành phố thị trấn lớn Nhật đều thiệt hại nặng vì bom lữa . Địch quân càng gần Nhật bao nhiêu thì kháng cự  lại càng anh dũng bấy nhiêu .  Rất ít lính Nhật bị bắt làm tù binh.  Phi công Nhật kamikaze Thần Phong   bay đánh phá tàu chiến , nhắm   thả bom hay phóng ngư lôi  thẳng vào mục tiêu và chết luôn khi chúng nổ .

          Ở hội nghị Yalta tháng 2 năm 1945, Stalin đồng ý  lã sẽ đánh Nhật 3 tháng   trước khi Đức bại trận. Nhật cố tâm đạt cho được  những  điều  khoản tốt hơn là đầu hàng không điều kiện,  mà các Đồng Minh Hội Nghị  Casablanca  đưa ra buộc Nhật.  Tojo từ chức thủ tướng tháng 7 năm 1944  và thủ tướng kế tiếp,  tướng Koiso Kuniaki từ chức tháng 4 năm 1945,  và Suzuki Kantaro thay thế , khoan nhượng hơn , sẳn sàng đầu hàng với bất cứ điều kiện nào. Nhưng hội nghị Postdam  tháng 7 năm 1945  nhất quyết loại bỏ  " chánh sách quân phiệt vô trách nhiệm "  đã hướng dẫn lầm lạc dân Nhật. Có bom nguyên tử trong tay , Đồng Minh  cho Nhật biết qua  trung gian Nga là Nhật  phải đầu hàng không điều kiện hay bị phá tan tành. Đồng Minh đợi Nhật 10 ngày, rồi thả bom  nguyên tử đầu tiên ở Hiroshima, đại bản doanh  Nam Lộ Quân Nhật , ngày 6 tháng 8 năm 1945 . Quân đội Bộ binh Kwangtung ở Mãn Châu đã kiệt quệ, không còn  sức tiếp viện  các vùng khác và cũng không kháng cự nổi , cuộc tiến đánh của quân đội Nga.  Nhiều đơn vị Hải Quân Nga  tấn công Sakhalin và Kuriles.
       
Ngày 10 tháng 3,  nội các,   bế tắc  ở vấn đề đầu hàng,  thỉnh cầu Nhật hoàng Hirohito cho  khuyên bảo . Nhật hoàng  chịu đầu hàng, và cho Đồng Minh biết  với "một điều kiện là  duy trì tình trạng của Nhật hoàng". Đồng Minh không chấp nhận một điều kiện nào cả, và khi Nhật hoàng can thiệp lần thứ hai, Nhật đầu hàng không điều kiện .  Ngày 15 tháng 8,  Nhật hoàng tuyên cáo đầu hàng với quốc dân Nhật, nói rằng dân Nhật phải chịu đựng "những gì không chịu đựng nổi "  và khẩn cầu dân chúng  hợp sức tái thiết nước nhà.  Dân Nhật và các cấp chỉ huy quân đội  chịu nhận tình trạng, vì rỏ ràng là mọi kháng cự đều vô vọng .  Một  nhóm nhỏ  lảnh tụ quân đội  nổi loạn, xông vào hoàng cung, cố công bất thành chiếm đoạt  bảng ghi âm   tuyên ngôn  Nhật hoàng, không cho phát thanh.  Bộ trưởng chiến tranh tự vận . Hoàng thân Higashikuni  được cử làm thủ tướng  để bảo đảm trật tự và vâng lời, dựa trên uy tín Nhật hoàng.  Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Nhật ký công cụ đầu hàng trên soái hạm U. S.S.  Missouri ở vịnh Tokyo.

    Sẽ tiếp và hết : Nhật Hậu chiến




Con Dân Nước Việt là những người đặt Tổ Quốc lên bản vị tối cao, tối cao có nghĩa là trên tất cả mọi vật, kể cả tôn giáo, đảng phái, và cả chính bản thân mình.


No comments:

Post a Comment