*** QUYỀN LỢI TỔ QUỐC & DÂN TỘC LÀ TRÊN HẾT *** KHAI DÂN TRÍ, CHẤN DÂN KHÍ, HẬU DÂN SINH ***

2013/04/18

NHÀ SƯ CỦA TÔI


Hoàng Ngọc Liên
Tưởng niệm Thượng Tọa Thích Thanh Long

Nhớ nhau, xin nhớ tình dân tộc,
Lẳng lặng mà xem đá nở hoa.

Thượng Tọa Thích Thanh Long

Lần chót tôi đến chùa Giác Ngạn là vào một buổi sáng Chúa Nhựt, sau khi dự thánh lễ tại nhà thờ Ba Chuông. Cũng nằm bên phải trên đường Trương Minh Giảng về hướng Lăng Cha Cả, chùa Giác Ngạn, nơi Thượng Tọa Thích Thanh Long trụ trì, ở sâu trong một con đường nhỏ chừng một trăm mét.

Tôi là một trong những người "mê tín" cụ Thanh Long, nhất là trong thời gian ở trại "cải tạo"Thanh Phong, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa vào những năm đầu của thập niên 80. Vì là người đồng hương Ninh Bình, nên ngay sau khi cụ Thanh Long đảm nhiệm chức vụ Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật Giáo QLVNCH thay thế Thượng Tọa Thích Tâm Giác, tôi đã tới chúc mừng cụ. Lần nào đến Nha TUPG, tôi cũng được cụ cho uống trà và kể lại những kỷ niệm tại quê cũ. Nhưng phải đợi đến khi gặp lại cụ ở trại "cải tạo" Yên Hạ, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La, rồi sau này trại Thanh Phong, tôi mới có dịp sống chung với cụ và hiểu hơn về con người của cụ.

Đó làmột ông già "nhà quê" bình dị, một "đại sư" - như anh Đoàn Bội Trân và tôi thường nói về cụ - đã khiến một người theo Thiên Chúa Giáo như tôi "mê tín".

Trongmột bài báo dành riêng để tưởng niệm cụ trong ngày giỗ cụ đầu năm 1994 , anh bạn tôi, Ký Giả Lô Răng đã xúc động ghi lại nhiều kỷ niệm về cụ, ở đây tôi chỉ xin nhắc những "diễn biến hòa bình" mà cụ và tôi thường tâm đắc. Bao giờ cụ cũng có những "mắm muối" pha thêm vào câu chuyện cho đậm đà, vui vẻ và thoải mải.
Cụ kêu tôi bằng ông và hỏi tôi:

- Ông biết tại sao tôi kêu ông là Ông mà ông Hùng lớn tuổi hơn ông, tôi lại kêu bằng... anh không ?

Thấy tôi chưa "nắm" được vấn đề, cụ giải thích ngay:

- Đó là gọi theo tên hoặc theo họ, người mình cũng đôi khi gọi theo họ, như người Trung Hoa và tùy theo để xưng hô là Cụ, là Bác, là Ông, là Anh.
Ví dụ ông họ Hoàng thì tôi kêu bằng Ông Hoàng. Ông Nguyễn Huy Hùng thì tôi kêu bằng tên, là Anh Hùng.
Cũng như vậy, ông Tống Tấn Sỹ thì tôi kêu bằng tên, là Bác Sỹ...

Rồi cụ cười:
- Cho vui vậy mà!
Tôi cười theo:
- Hèn chi anh Tú chưa đến sáu mươi mà đã được Đại Sư kêu là Cụ Tú, còn anh Thông là Thầy Thông !
Bây giờ noi theo Đại Sư, ai cũng gọi anh Thông là Thầy Thông, mặc dù ảnh đâu phải là... Đại Đức!
Trong số những bồ ruột của cụ ở trại Thanh Phong, còn có ông cha Nghiêu, cựu Tuyên Úy Công Giáo.
Nhìn hai người ngồi chồm hổm ngoài sân nấu nước pha trà, ông cha Trâm - Tuyên Úy BĐQ - bảo tôi:
- Ông coi, thật là một bức tranh hòa đồng tôn giáo tuyệt vời. Tiếc rằng không có máy ảnh...
Sau này, lúc linh mục Nghiêu yên nghỉ trên đồi cây Thanh Phong, cụ Thanh Long ngậm ngùi nói:
- Thế là "Đức Vua băng" rồi! Ông Hoàng phải đọc kinh cầu nguyện cho linh hồn Ngài.
Còn tôi thì làm công quả hồi hướng cho Ngài. Ngài "về" với Chúa như vậy cũng đỡ nhức đầu!
Cụ vui vẻ khi gọi ông Cha Nghiêu, cũng như Linh Mục Đinh Cao Thuấn, cựu Giám Đốc Nha Tuyên Úy Công Giáo là "Đức Vua"!
Cụ hay nói: "Cho vui vậy mà!"

Trong lúc mọi "trại viên" - danh xưng bịp của Công An coi tù đặt cho chúng tôi - "thương" cụ Thanh Long như vậy, thì bọn "chèo" lại không ưa cụ.
Chúng luôn tìm cách "hành" cụ, hoặc bắt cụ... cuốc thêm, phạt cụ ăn 12 kg, dọa sẽ cắt thăm nuôi...
Cụ Thanh Long thường bảo chúng tôi cái gì cũng... từ từ, mình còn tù trường kỳ, đâu có gì gấp. Ngờ đâu chủ trương "từ từ" của cụ rồi cũng đến tai... chèo!
Tên cán bộ trực trại hỏi cụ:
- Tại sao trong lúc phải tranh thủ đi nhanh ra hiện trường để thi đua làm sắn, anh cứ rề rề lùi lại phía sau. Có trại viên đứng lại chờ anh, anh lại nói: "Cứ từ từ"! Anh chống đối lao động hả?
Cụ cười:
- Nào tôi có chống đối bao giờ đâu. Cái chân tôi bị thấp khớp đi nhanh không được.
- Nhưng anh lại xui người khác từ từ...?
- Từ từ là tôi từ từ thôi...
- Anh về làm kiểm điểm cho tôi. Bắt đầu từ ngày mai, anh ăn mười hai kí!

Chiếc bánh bột mì luộc bằng lòng bàn tay là tiêu chuẩn thường lệ của mỗi người, hôm sau lúc phát cho cụ đã bị cắt một miếng. Miếng bánh được cát ra đó đem đặt vào tiêu chuẩn của anh Đinh Công Chất vì Chất "làm cho quên đời" được ăn mười tám kg. Tên "chèo" thưởng cho một người ăn thêm, nhưng trại không mất thêm chút nào. Nó cắt xén một người đang từ tiêu chuẩn 15kg xuống 12kg, để thưởng cho một người từ 15 kg lên 18 kg !

Do vậy, mà khi hiểu âm mưu "chèo", anh Chất đã cầm mẩu bánh đem trả vào chiếc bánh mới bị cắt ra của cụ Thanh Long, rồi anh lấy chiếc bánh đó ăn và để chiếc bánh còn nguyên vẹn của mình cho cụ. Dĩ nhiên việc này không cho "chèo" biết và càng không để cụ hay được.

Vì cụ chẳng bao giờ quan tâm đến chuyện ăn uống, nên việc "chèo" có hạ tiêu chuẩn ăn hay không, cụ cũng không để ý nữa.

Trở lại câu chuyện đồng hương, bữa chúng tôi chuyển trại vào Thanh, lúc chiếc xe Ba Đình chở tù đi qua Thị Xã Ninh Bình, cụ chỉ tay vào bảng chỉ đường bảo tôi:
- Từ đây về phủ Kim Sơn chỉ còn hai mươi ba cây số, Phát Diệm hai mươi bảy cây. Ngày xưa có một dạo tôi ở chùa Đồng Đắc, cũng gần làng ông.
- Thưa Cụ, những năm cuối thập niên 30, ông già tôi thường xuống chùa Đồng Đắc lễ Phật.
Cụ Thanh Long ngạc nhiên:
- Nghe nói ông cụ có người anh ruột làm linh mục bên địa phận Bùi Chu?
- Dạ đúng, nhưng ông già tôi lại hay xướng họa thơ chữ Hán với quý vị lãnh đạo tinh thần bên Phật Giáo.
Cụ Thanh Long cười:
- Thảo nào ông thân với mấy ông sư. Thầy Thích Minh Thuần, Tuyên Uý Phật Giáo Sư Đoàn Dù, hồi sinh tiền vẫn nói với tôi là ông thường vô vãng cảnh chùa Hưng Pháp.
Xe đi qua cầu Hàm Rồng thì một hòn đá từ đâu liệng trúng vào tấm kiếng sát chỗ cụ ngồi.
Cụ hỏi tôi:
- Ông có biết tại sao họ ném đá vào xe mình không?
Tôi đoán chừng:
- Tôi chắc là đồng bào được nghe cán bộ tuyên truyền là sĩ quan "ngụy" ăn thịt người, nên xui họ tỏ thái độ...
Cụ Thanh Long vẫn cười, nhưng đầu cụ lắc lắc:
- Lần này ông... sai rồi! Đó là những năm trước khi chúng mình mới ra Bắc. Bây giờ thì đồng bào hiểu rồi.
- Vậy lần này...
Cụ chậm rãi:
- Lần này đồng bào bị lừa!
Tôi trố mắt:
- Đại sư nói đồng bào bị lừa?
Cụ gật gù:
- Lúc xe dừng lại bên này cầu Long Biên. Tôi được một anh tài xế xe Ba Đình cho hay trước, là anh ta nghe "chèo" nói với nhau lần này rỉ tai đồng bào dàn chào xe chở bọn tù binh "bành trướng Trung Quốc" mà "ta" bắt được trong trận chiến trên sáu tỉnh biên giới phía Bắc vừa qua. Tuyên truyền như vậy mới khích động căm thù trong dân chúng, vì Thanh Hóa cũng như các tỉnh, đều có bộ đội, dân công hy sinh trong những ngày Tầu "vượt biên"... xâm lược !
Tôi nói thêm:
- Và cũng để chúng ta hiểu lầm đồng bào còn căm thù mình... Tin tức nóng hổi như vậy mà Đại Sư cũng có sớm. Cụ thiệt thần thông quảng đại !
Cụ lại cười:
- Thần thông gì đâu? Có duyên may nên được biết, nên cũng... thông cảm với đồng bào.

Lúc đến Trại Thanh Phong, tôi may mắn ở cùng đội với cụ Thanh Long. Đội trưởng là anh Võ Văn Hổ. Chúng tôi gọi anh là... Cọp cho gọn. Cọp rất khéo léo, vừa không để "chèo" bắt bí, vừa không để anh em phải làm những việc mà tự bọn "chèo" nghĩ ra bắt tù phải làm, như một đội khác. Đối với cụ, Cọp một niềm trọng kính. Việc gì coi bộ quá nặng so với thể lực của mấy ông già, nhất là khi trong số những người phải làm lại có cụ Thanh Long, Cọp thường tiếp tay làm cho mau xong.

Cụ thường khen:
- Cọp khỏe và dễ thương lắm, lại hay giúp mấy ông già. Nếu "tự quản" nào cũng như Cọp thì anh em tù cũng đỡ khổ.
Chẳng những anh em quốc gia bị tù đỡ khổ mà cả mấy đứa con nít bên tù hình sự cũng đỡ đói.
Câu chuyện này về sau kể lại cho nhà thơ Thái Duy Đức nghe, thi sĩ rất tán thưởng:
- Thế là hơn mười năm trước, các anh em tù chính trị đã làm "diễn biến hòa bình" rồi !

Câu chuyện thật giản dị, chúng tôi làm vì tình người, không cần biết bọn trẻ đang bị cầm tù mất dạy như thế nào. Chỉ thấy chúng đang đói, đang lạnh. Chúng tôi cũng đói, cũng lạnh, nhưng so với tù hình sự, chúng tôi hạnh phúc hơn nhiều. Từ 1979, tù chính trị đã được thăm nuôi, hoặc được phép nhận quà ba kg, về Thanh Phong gói quà gia đình đã lên năm kg, cho nên mỗi khi có "thăm nuôi", chúng tôi lại chuyển phần bo bo qua cho mấy đứa trẻ bên tù hình sự. Nói chuyển qua thì dễ, nhưng chuyển qua trót lọt, tránh được bao nhiêu con mắt cú vọ của đám "chèo", của "ăng ten"... thì cũng phải tốn công phu. Thường thường một vài anh em trẻ, có sức liệng xa khiến chiếc túi ni lông có mấy "tiêu chuẩn" bo bo rơi đúng... vị trí. Còn cụ Thanh Long và tôi đứng hai đầu nhà canh chừng để nếu thấy đúng thời cơ, mới ra hiệu cho anh em liệng bịch ni lông bo bo qua bên kia hàng rào giây kẽm gai cho mấy đửa nhỏ đang chờ sẵn.

Được các bác, các chú miền Nam chi viện, bọn trẻ rất cảm động. Có đứa đã khóc. Ngoài rẫy làm mùa, chúng tôi được bọn trẻ biết ơn, kiếm giùm cho bó củi, bó rau. Dĩ nhiên chúng cũng mong được cho đồ ăn, cho quần áo, nhưng điều làm cụ Thanh Long và chúng tôi được an ủi là bọn trẻ mất dạy đã có lễ phép, biết nói cám ơn và nhất là chúng thấy rõ những điều được "giáo dục" căm thù quân "ngụy" của Công An coi tù là láo khoét.

Đó cũng là phần thưởng tinh thần cho chúng tôi và là những kỷ niệm khó quên trong thời gian chung sống với cụ Thanh Long.
Tiếc rằng cụ viên tịch trước khi tôi chuyển lời thăm của Cọp đến cụ. Vì cái lần chót mà tôi đến chùa Giác Ngạn - như trên đã viết - là để tiễn cụ về nơi yên nghỉ.
Tôi thắp hương lạy trước quan tài, như một Phật tử ngoan đạo và nói với cụ:
- Tôi thật có lỗi vì cả tháng nay lu bu ba cái giấy tờ chưa đến thăm Đại Sư được, bữa nay đến thì chỉ còn đưa tiễn Đại Sư.
Thứ năm vừa qua, Cọp đi Mỹ. Tôi ra sân bay Tân Sơn Nhất với Cọp. Cọp nói: "Ông già có đến chùa Giác Ngạn cho tôi gửi lời thăm Thầy Thanh Long."
Mong Đại Sư sớm về cõi Đức Phật A Di Đà!
Lạy Đại Sư.

Cả rừng người đổ xô về chùa Giác Ngạn, trong đó dĩ nhiên có vợ chồng người Công Giáo từng đi thăm nuôi cụ, để vĩnh biệt "Nhà Sư của tôi."

Để Tưởng niệm "Nhà Sư Của Tôi"
Cầu chúc Ngài sớm siêu thăng Lạc Quốc.

Hoàng Ngọc Liên
(http://hoangngoclien1.tripod.com/)

2013/04/17

Chuyện hai bác nông dân đổi vợ


  Văn Quang 

                                     
Chuyện về những nghị định, quyết định ở VN không giống ai đã công bố hay còn là dự thảo đang gây nhiều tranh cãi dẫn đến bất bình của người dân còn khá nhiều. Nào là làm lại Chứng minh nhân dân 12 số, chuyện ông Ngân hàng nhà nước "ngồi nhầm chỗ" nhảy ra làm "ông buôn bán vàng chuyên nghiệp", đề nghị cho bắn người chống cán bộ thi hành công vụ và những quy định lẩm cẩm khác như bàn tay sáu ngón không được lái xe, việc Giám đốc Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng mang 11 sổ đỏ của Vườn đi thế chấp hoặc cầm cố…

Nhưng bàn mãi về những chuyện đó khiến quý bạn đọc đau đầu, nên kỳ này xin bàn đến một chuyện vui buồn lẫn lộn trong lãnh vực tình cảm, thứ chuyện muôn đời nói hoài không bao giờ hết. VN mới có Dự thảo Nghị định xử phạt những người ngoại tình và quấy rối tình dục tại nơi làm việc có thể bị phạt tiền từ 50 đến 75 triệu đồng. Kỳ sau xin bàn với bạn về lợi hai của cái Nghị định đó.

Nhân bàn về chuyện này, kỳ này xin mời bạn đọc thưởng thức một chuyện tưởng như không bao giờ có thật ở VN. Tôi cứ băn khoăn mãi, không biết chuyện này có làm cho đời sống nông thôn VN vốn hiền hòa chất phác bị "nhiễm độc" vì những thứ văn hóa đồi trụy từ ngày "mở cửa" không? Bạn cứ đọc đi rồi cười cũng được, khóc cũng được.

Chuyện không thể tin, vẫn có thật

Thưa bạn, chuyện này khi nghe một anh bạn nói lại, tôi cũng không tin. Buổi sáng ngày 9-4 vừa qua, ngồi ở cà phê sân vườn dưới Phú Nhuận, một anh bạn trẻ là phóng viên một tờ báo, phây phây hỏi tôi:

- Bác có biết tin mấy ông nông dân thứ thiệt nhà ta "chịu chơi" hơn bọn trẻ chưa? Họ dám đổi vợ cho nhau đấy.

Tôi không tin nên chỉ lắc đầu cười dài:

- Cậu chơi trò cá tháng tư với tớ đấy hả?

Anh ta bèn lên giọng đứng đắn nói đó là chuyện hoàn toàn có thật, có tên tuổi đàng hoàng, có cả viên chức chính quyền địa phương làm chứng. Chuyện xảy ra từ lâu nhưng đến nay mới được "khui" ra. Anh kể lại sơ lược câu chuyên ly kỳ này. Anh ta cũng lấy tin trong một tờ báo khác nhưng không nhớ là báo nào. Sau khi về nhà, anh PV "meo" cho tôi luôn tin đó. Tôi đọc và tìm hiểu thêm. xin tóm lược dưới đây::

Thật ra chuyện đổi vợ đã từng xảy ra ở một vài nơi trên thế giới. Năm 1960, tại Anh, kể từ khi thuốc tránh thai được phát minh, phong trào buông thả tình dục trong giới trẻ bùng phát mạnh. Các nhà sử học gọi giai đoạn này là "Cuộc cách mạng tình dục ở châu Âu". Hình thức sinh hoạt câu lạc bộ phi công của Mỹ lan sang Anh gặp môi trường "cách mạng tình dục" đã biến nhanh thành phong trào swing. Hội viên hội swing gọi là swinger. Được một thời gian, phong trào swing dần thoái hóa vì sự kỳ thị của xã hội. Một số tín đồ swing vẫn ngấm ngầm hoạt động trong vòng bí mật để tránh ánh mắt dè bỉu, khinh khi của người đời. Giống như các loại hình thức giải trí khác, swing cũng len lỏi vào xã hội Việt một cách ngấm ngầm ở vài nơi.

                                              
                                                        Một chòi lá trong khu du lịch ở Tây Ninh là nơi gặp nhau của nhóm swing
Cụ thể như ở TP Sài Gòn, mới năm 2012, một cái hội cũng được gọi là Swing ở khu Bàu Cát - TP Sài Gòn. Có nhiều cặp mang vợ đến đổi cho nhau, có khi lên đến 8 cặp, thay đổi bất cứ khi nào cho có "người mới". Nhưng đó là dân thành phố, gồm mấy anh chị hầu hết là vợ hờ, chồng tạm, thích tập tành làm "dân văn minh quốc tế". Ấy thế mà cũng có luật lệ đàng hoàng. Phải có giấy "đăng ký kết hôn" và giấy xét nghiệm máu mới được cho vào hội để tránh bị AIDS.
                                              
                                                                       Vợ người này ngồi trong tay người khác
Nhưng thật ra những giấy tờ đó đều là giả, chỉ cần bỏ ra hai trăm ngàn là có ngay giấy khống chỉ, có mộc đỏ đàng hoàng, chỉ việc điền tên vào là xong ngay. Ở VN cái gì cũng làm giả được hết từ bằng tiến sĩ đến cái giấy chứng nhận vớ vẩn nào bạn cần. Một chị chơi lâu năm chán chường rồi tiết lộ: "chị và ông chồng kỹ sư của chị chẳng phải vợ chồng gì cả. Chỉ là rổ rá cáp lại. Chị và lão kỹ sư cũng không phải cử nhân, trí thức. Anh ta chạy xe ôm, còn chị bán hột vịt lộn vỉa hè tại một khu công nghiệp ở Bình Dương!"
                                                         
                                                                          Một swinger vừa từ phòng ngủ ra
Nay cái hội "Swing văn minh ngã tư quốc tế" đó có lẽ đã tan rã từ lâu không nghe nhắc tới nữa.

Hai bác nông dân chân đất đổi vợ cho nhau

Còn đây là chuyện khác hẳn. Chuyện của hai cặp vợ chồng "quê một cục, trăm phần trăm". Có lẽ cả hai cặp chưa từng lên internet bao giờ và hồi đó ở tỉnh cũng chưa có internet, các bác này cũng chẳng đọc báo chí lam nham để biết đến những hoạt động tình ái ba lăng nhăng của thiên hạ. Tất cả "kịch bản" này được chính các vị nông dân chân đất này trong một lúc cao hứng đã "sáng tạo" ra.  

Chuyện xảy ra tại xã Sơn Phú, huyện Hương Sơn (Hà Tĩnh). Hai cặp vợ chồng ấy một thời đã từng là bốn người bạn thân thiết. Thế rồi, chỉ sau chuyện trên bàn rượu, họ đã quyết định chẳng thể ai ngờ tới: tráo đổi vợ chồng cho nhau!

Theo một số người dân ở xã Sơn Phú thì sự việc "đổi vợ đổi chồng" diễn ra đã khá lâu nhưng một trong số những nhân vật chính hiện vẫn sống tại địa phương và được một giới chức tại xã này xác nhận. Ông Nguyễn Như Tùng, nguyên xóm trưởng thôn Công Đẳng, xã Sơn Phú - người đã biết rõ nhất vì đã từng phải đứng ra giải quyết chuyện trần gian có một không hai này. Ông kể rành rọt:

"Đó là sự việc khiến tôi phải nhớ mãi trong thời gian làm trưởng xóm ở ngôi làng này. Nó bắt đầu xảy ra từ năm 1995 nhưng giờ đến xã này, hỏi bà Trinh, hiện còn ở trong xã, một mình nuôi đàn con ai mà chả biết việc đổi chồng năm xưa của bà".

Từ vợ bạn thành vợ mình, vợ anh thành vợ tôi

Ông Nguyễn Đình Tình (SN 1959) và bà Nguyễn Thị Trinh (SN 1966) là vợ chồng cùng trú tại xã Sơn Phú. Đến khi xảy ra sự việc (vào năm 1995), ông bà đã có với nhau bốn đứa con, đứa lớn 11 tuổi và đứa nhỏ nhất mới 5 tuổi. Tại ngôi làng nhỏ bé này, vợ chồng ông Tình chơi rất thân với gia đình ông Nguyễn Hồng Gia (SN 1962) và bà Nguyễn Thị Lắm (SN 1960). Nếu như vợ chồng ông bà Tình-Trinh có bốn đứa con ngoan ngoãn, thì vợ chồng ông bà Gia-Lắm cũng đã có với nhau hai cô con gái nết na, xinh đẹp.

Vì là hàng xóm thân tình, "tối lửa tắt đèn" có nhau, nên hai cặp vợ chồng này như người một nhà. Hễ gia đình nào gặp chuyện khó khăn thì gia đình kia không ngần ngại đến giúp đỡ. Họ thân thiết đến mức từng bát cơm, con cá, bó rau cũng sẻ nửa, san đôi. Không những thế, do cùng hùn hạp vốn làm ăn chung, họ càng trở nên thân thiết hơn. Cứ mỗi dịp đi làm chung về, hai cặp vợ chồng thường tụ tập ở nhà của ai đó để nghỉ ngơi, ăn uống. Gia đình này thậm chí có thể ăn ở cùng gia đình kia cả tháng trời mà ai cũng cảm thấy vui vẻ. 

Nhưng chính trong cái không khí đầm ấm bề ngoài ấy, người ta chẳng thể ngờ "cơn sóng ngầm" đã âm ỉ bộc phát từ lâu, khi bà Trinh và ông bạn láng giềng Gia đã nảy sinh tình cảm "khác thường" trên quan hệ hàng xóm, bạn bè. Tuy vậy ông bà này đã khéo giữ nên chỉ hai người biết với nhau.

Chồng gật, vợ cũng gật theo mới là chuyện lạ

Có lẽ đây là một trong những lý do chính dẫn đến "bi hài kịch" không ai ngờ tới. Buổi chiều cuối năm 1995, sau một ngày làm việc mệt nhọc, bốn người bạn đã làm một bữa tiệc, vừa để nghỉ ngơi, vừa để vun đắp tình cảm của hai gia đình. Khi rượu đã ngà ngà, hai gã đàn ông bỗng dưng nghĩ ra trò quái đản. Khi ông Tình đề nghị: "Mi đổi gái (vợ - PV) cho tao, tao sẽ đổi gái cho mi". Không hiểu sao ông Gia cũng gật đầu đồng ý. 

Và điều đáng nói hơn là khi nghe hai ông chồng bày tỏ ý tưởng điên rồ đó, không hiểu vì lẽ gì lại được cả hai người đàn bà quê mùa kia chấp thuận. 

Thế là ngay trong đêm đó, hai cặp vợ chồng từng là bạn nối khố của nhau quyết định thực hiện chuyện tráo đổi vợ chồng một cách điên rồ. Rồi chẳng hiểu vì uống phải bùa mê thuốc lú hay vì "cái lạ bằng tạ cái quen" mà những ngày sau, cả bốn con người đó vẫn tiếp tục trò chơi ký quái này.

Đổi luôn cho tiện việc… đốt nhà

Nhưng được một thời gian, rồi cũng có người tỉnh trí nhận biết mình đang chơi trò chơi nguy hiểm, trái luân thường đạo lý. Đầu tiên, bà Lắm vợ ông Nguyễn Hồng Gia, nhất quyết không chịu ăn ở nhà ông Tình, bạn của chồng nữa mà đòi về nhà mình. Tiếp theo, ông Tình cũng tỉnh ngộ, sang nhà ông bạn để đòi vợ là bà Trinh về. Tuy nhiên, vì đã có tình cảm với nhau từ trước nên ông Gia và bà Trinh… không đồng ý và muốn đổi vợ đổi chồng luôn… cho đỡ lôi thôi và đã "quen hơi bén tiếng, hòa hợp" rồi nên cứ để thế cho yên.

Đòi vợ không được, ông Tình nổi cơn điên, châm lửa đốt nhà của ông bạn "vàng" đã cuỗm mất vợ mình, không chịu trả. Rất may, dân làng phát hiện kịp thời nên ngọn lửa nhanh chóng được dập tắt. Tuy nhiên, "đám cháy đổi tình" của hai cặp vợ chồng này thì không thể dập được nữa. Hai bên nhất định không bên nào chịu nhượng bộ bên nào. Vợ mình vẫn cứ ở nhà bạn.

Hai gia đình cùng tan nát

Sau hành động ngang nhiên đốt nhà của người khác, ông Nguyễn Đình Tình bị bắt và bị xử án tù gần một năm. Ngày mãn hạn tù về nhà, ông Tình đành cắn răng chấp nhận sự thật vợ mình đã thuộc về kẻ khác. Ông Gia và bà Trinh vẫn tiếp tục sống với nhau.

Còn về phần chị Lắm vợ ông Gia, khi thấy chồng đưa người phụ nữ khác về nhà ở, phần vì quá đau lòng, phần vì không chịu nổi miệng lưỡi đàm tiếu của người đời, đã nuốt nước mắt ôm hai con gái vào miền Nam sinh sống. Từ đó đến nay, những người dân ở đây cũng không biết ba mẹ con trôi dạt đến phương nào, bây giờ ra sao. Còn đối với ông Tình, sau khi mãn hạn tù một thời gian, được người quen mai mối đã đi bước nữa. Ông Tình và người vợ mới có thêm một cậu con trai hiện đang học lớp 10. Còn ông Gia và bà Trinh sau khi về ở với nhau đã có thêm ba người con nữa. 

Gần hai mươi năm đã trôi qua, nhưng câu chuyện "tráo đổi vợ chồng" đầy oan nghiệt ấy vẫn chưa thể quên trong ký ức những người dân xã Sơn Phú. 

Hậu quả vô cùng bi thảm 

Hành động "đổi chồng, đổi vợ" khiến con trẻ phải gánh kết cục quá oan nghiệt chẳng ai ngờ tới. 

Ông Tình và bà Trinh có hai cô con gái tên là N và L. Sau khi mẹ chúng sang ở với ông hàng xóm, bố thì bị đi tù về đói rách, hai đứa quá buồn rầu nên rơi vào cuộc sống đầy oán hận và buồn tủi. Đến trường thì bị bạn bè trêu trọc, về nhà lại bị người ta xét nét, chúng càng tỏ ra bất mãn với cuộc sống. Ví quá xấu hổ nên học đến lớp 9, N đã bỏ học, bỏ nhà đi "bụi đời", sau đó lôi kéo em gái mình cùng đi theo. 

Sau một thời gian bỏ nhà, sống buông thả vất vưởng ở Sài Gòn, hai em đã bị dính căn bệnh thế kỷ AIDS. Năm 2003, dù vào Sài Gòn sau chị gái, nhưng L. lại nhiễm bệnh và mất trước chị gái khi đang ở tuổi 17 trăng tròn, phải chôn thân nơi đất khách quê người. Không lâu sau khi em gái mất, N. cũng trở về quê rồi nhắm mắt xuôi tay trong lặng lẽ cũng vì căn bệnh thế kỷ này!

Những nhân vật chính hiện nay ra sao?

Còn đối với những nhân vật chính trong câu chuyện này cũng có cuộc sống không như mong đợi. Ông Tình chung sống với vợ ông Gia được 6 năm thì mất. Ông ra đi để lại vợ con thơ dại và bố mẹ già yếu. Còn bà Trinh, qua hai đời chồng đã sinh được 7 đứa con (nhưng nuôi 5 đứa) nên cuộc sống không thể khá giả lên được, hiện bà đang ở xóm cũ.

                                              
                                                               Ông Hồ Văn Đông xác nhận câu chuyện với PV
Còn ông Gia, sau khi quyết chí sống với vợ của bạn sau màn "tráo đổi vợ chồng" vô tiền khoáng hậu chỉ được một thời gian cũng không may gặp tai nạn qua đời, để lại cho bà Trinh 5 đứa con nheo nhóc. Chính vì vậy, những người dân nơi đây cho biết, gia đình của cả hai người phụ nữ này hiện được liệt vào danh sách gia đình nghèo của xã Sơn Phú. Ông trưởng xóm Hồ Văn Đông cho biết: 

                                              
                                                                                 Bà Nguyễn Thị Trinh 
"Chúng tôi đều biết rất rõ và chán ghét vì câu chuyện năm xưa liên quan đến bà Trinh. Nhưng giờ chứng kiến cuộc sống mẹ con bà ấy quá khó khăn, nhiều người cũng chạnh lòng. Với cương vị là trưởng xóm, tôi cũng chỉ biết an ủi, thăm hỏi tặng quà mỗi khi có dịp thôi".

Hai cặp vợ chồng đã li dị rồi mới tái hôn

Kể về câu chuyện hy hữu có một không hai này, ông Nguyễn Anh Huân, viên chức tư pháp - hộ tịch xã Sơn Phú cho biết: "Thực tế về mặt pháp luật, hai cặp vợ chồng đã được tòa án giải quyết cho ly hôn và sau đó tái hôn nên không có gì sai. Tuy nhiên, trong thời gian trước đó thì đúng là có chuyện "đổi vợ" nên mới nảy sinh mâu thuẫn. Sau khi sự việc đó diễn ra thì hai cặp vợ chồng đó mới chính thức ra tòa ly dị".

Như thế là nếu cái nghị định "ngoại tình" kia được áp dụng, hai cặp đổi vợ này có sống lại cũng không thể bị phạt.

Đây là chuyện từ cổ chí kim tôi mới nghe một lần. Chẳng biết hai bác nông dân có bị tiêm nhiễm ảnh hưởng "thác loạn" của xã hội thời đó không. Nếu sống ở thành phố, bây giờ học theo lối sống của các "showbiz" và những cô cậu chỉ thích xài sang, ăn trắng mặc trơn không muốn làm việc, không biết hai bác nông dân này sẽ còn thác loạn tới đâu nữa? Tôi nghĩ ở miền quê nghèo mà "chơi tới bến" như thế cũng là cùng cực của sư suy thoái đạo đức rồi, không thể hơn được nữa. Nếu chúng ta tin vào thuyết nhân quả, "ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác" thì đây là một minh chứng rõ ràng nhất. Mong rằng xã hội VN không còn những bi kịch như thế này nữa. 

Một lời "nhắc" chân thành các đấng mày râu

Xin nhắc các vị độc giả, căn bệnh thế kỷ ở VN bây giờ nhiều như ruồi, không ai có thể kiểm kê hết được và nhìn bề ngoài cũng không thể nào đoán biết được. Có người còn nói rằng càng là "hàng nhà quê" hoặc hàng được gọi là "rau sạch" càng dễ "chết". Càng tóc xanh môi đỏ, chân dài… càng nhiều nguy cơ tiềm ẩn sau những bộ "vó" choáng lộn. May mắn lắm mới gặp được "hàng thật". Còn phần nhiều những cô gái trẻ đóng vai sinh viên, nghệ sĩ đều chỉ là để lừa khách bởi lẽ cái mác "sinh viên" "nghệ sĩ" khiến nhiều đàn ông mê đắm, như thể họ là dân chơi "có đẳng cấp" quen toàn "hàng sạch". 

Hoặc có ông khoe lấy toàn vợ còn trinh, không còn "din" ông không lấy. Nhưng ông quên khuấy đi một điều là ở VN bây giờ, vá cái "din" dễ dàng như đi… siêu thị. 

Bạn không tin ư? Mời bạn vào net xem trang thông tin của Bệnh Viện Chuyên Khoa Giải Phẩu Thẩm Mỹ Sài Gòn (97B Nguyễn Du, Phường Bến Thành, Quận 1, TP Sài Gòn, Việt Nam). BV này cho biết hàng ngày không có biết bao nhiêu cô gái đến hỏi vá màng trinh qua điện thoại, qua email… tại Bệnh viện thẩm mỹ Sài Gòn. BV này còn có thể "sửa chữa" nhiều thứ "nhạy cảm" nữa, tôi không tiện kể ở đây. Đây cũng là cái điểm tựa vững chắc để các cô gái VN cứ "văng mạng" rồi tính sau, xã hội đã loạn càng loạn!

Tôi chỉ muốn lưu ý để các bạn không bị "quả lừa" to tướng khi phải về VN vì một lý do nào đó thôi.

Văn Quang
Viết từ Sài Gòn, ngày 13.04.2013

2013/04/13

Cuộc Đời và Sự Nghiệp: Hòa Thượng Thích Thiện Minh

Thích Nguyên Siêu
1.  Dẫn Nhập :
          Con đường hoằng dương Phật pháp của Đạo Phật Việt Nam đã viết nên những trang sử  hạnh nguyện từ bi, hành trạng vô úy, đại hùng của chư vị lịch đại Tổ Sư kể từ thời du nhập cho đến hôm nay. Con đường hoằng dương Phật pháp ấy có lúc thăng, có khi trầm theo vận nước, nhưng Đạo Phật Việt Nam luôn hiện hữu và tồn tại trong trái tim dân tộc suốt chiều dài lịch sử hai ngàn năm qua. Chính trái tim ấy đã đẩy những dòng máu để nuôi lớn Tăng già Việt Nam trở thành những bậc xuất trần thượng sỹ. Hòa Thượng Thích Trí Quang đã viết : "Dòng máu của Tăng già Việt Nam là dòng máu trí tuệ, sáng suốt, dòng máu đại hùng, đại lực ;  dòng máu từ bi hỷ xả, dòng máu tinh tấn, dũng mãnh, dòng máu ấy đủ tất cả, không thiếu một đức tính tốt di truyền nào. Con đẻ của dòng máu ấy là những anh hùng vị tha, lợi tha và giác tha, cứu khổ và giải thoát cho muôn loài. Dòng máu ấy làm cho Tăng già thành bậc tai mắt của người và trời, làm kiểu mẫu cho tam giới. Dòng máu ấy đào tạo Tăng già thành những bậc giác tha, những Đức Phật. Dòng máu ấy là dòng máu Chánh giác cao cả của Đức Phật vậy."  [1]
 
           Tiếp nối dòng máu của chư vị Tổ đức, Thiền sư Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương, Mâu Tử và nền văn hóa giác ngộ Luy Lâu, Hòa Thượng Thích Thiện Minh đã thừa tiếp và thắp sáng ngọn đèn Chánh pháp từ đó, để qua những tháng ngày hoằng pháp độ sanh, Hòa Thượng đã đem hết tâm huyết của mình phục vụ cho nhân quần xã hội. Bằng khả năng sẳn có, bằng ý chí kiên định, Hòa Thượng đã chấn tích vân du khắp các miền: từ Huế lên Cao nguyên, xuống miền Nam, ra miền Trung để điều động Phật sự, hoạch định phương án hoằng pháp, thiết lập các cơ sở chi hội, khuôn hội, tổ chức các đại hội từ hạ tầng cơ sở đến trung ương đẩy mạnh công cuộc chấn hưng Phật giáo, tạo dựng nền hòa bình cho quê hương dân tộc.

           Hình ảnh Hòa Thượng trong chiếc áo tràng đà, chiếc kính gọng đen to bản cố hữu, thật thâm trầm, đỉnh đạt, biểu hiện một Tăng tướng oai nghi mà qua những thập niên đương đại Hòa Thượng là bậc thiệu long Thánh chủng, là rường cột của Giáo Hội. Hòa Thượng đã dâng hiến trọn đời cho dân tộc, Đạo Pháp. Trong hàng Tăng đoàn, nơi ngôi Tổ đình, Hòa Thượng là bậc Chúng trung tôn để truyền trì mạng mạch Phật pháp; còn khi dấn thân vào đời hoằng pháp thì Hòa Thượng là một chiến lược gia, là một nhà hùng biện. Đến khi bị tù ngục qua bao chế độ thì Hòa Thượng là Bồ tát hóa thân vào đời ác năm trược và chịu khổ nhục thay cho mọi người. Tâm tư của Hòa Thượng lúc nào cũng thanh thản, trần tĩnh như tướng mạo của Hòa Thượng. Sau năm 1975, chế độ Cộng Sản Việt Nam bức hại, khủng bố Hòa Thượng, nhưng vẫn giữ lập trường dứt khoát, không bao giờ bắt tay với cộng sản. Hòa Thượng đứng thẳng người làm vị thuyền trưởng để lèo lái con thuyền Giáo Hội vượt qua cơn phong ba bão táp của chế độ nghiệt ngã cộng sản Việt Nam. Hòa Thượng đã khẳng định dứt khoát qua cuộc nói chuyện với tướng Đỗ Mậu :  "Dù tình thế có đi về đâu, thì Phật Giáo vẫn đứng trong lòng dân tộc mà đấu tranh cho đến cùng, bằng thế cách này hay chiến thuật khác. Thiếu tướng cứ tin đi, còn Giáo Hội, còn tôi thì cuộc tranh đấu không bao giờ ngừng." [2] Hòa Thượng Thích Thiện Minh là hạt nhân để tựu thành sử mệnh quê hương. Sử mệnh ấy là kiến tạo nền hòa bình chơn chánh – Dân chủ, tự do và nhân quyền. Phương châm hành hoạt Phật sự của Hòa Thượng là phát huy đạo pháp trường tồn và thăng tiến trên lộ trình tu tập đạo giải thoát.

          2.-  Tiểu Sử :

           Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Hòa Thượng có túc duyên với Phật pháp từ nhiều đời nhiều kiếp nên từ thuở nhỏ Hòa Thượng đã được quy y và xuất gia với Đại lão Hòa Thượng Thuyền Tôn, Thích Giác Nhiên – Đức Đệ Nhị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam THống Nhất.

           - Năm 1936 - 1939 theo học lớp Sơ đẳng Phật học tại chùa Trúc Lâm - Huế.
           - Năm 1939 - 1944 theo học lớp Trung đẳng tại Phật học đường Báo Quốc - Huế.
           - Năm 1944 -1947 theo học chương trình Đại học Phật giáo cũng tại Phật đường Báo Quốc - Huế.
            - Năm 1948, Hòa Thượng thọ đại giới Tỳ Kheo tại giới đàn Báo Quốc do Đức Đại lão Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết – Đức Đệ Nhất Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam THống Nhất làm đàn đầu Hòa Thượng. Cuối năm ấy, Hòa Thượng được công cử làm Hội trưởng Hội Phật học Đà Lạt kiêm giảng sư của Giáo Hội tại Lâm Đồng.
            - Năm 1948 - 1952, Hòa Thượng lần lượt tổ chức những chi hội Phật giáo tại Cầu Đất, Sông Hinh - Blao, Di Linh, Đơn Dương, La Ba.
           Song song việc điều hành Phật sự tại đây, Hòa Thượng đã thành lập các đơn vị Gia Đình Phật Tử Lâm Nguyên, Cầu Đất, Trại Mát, Trạm Hành… Tổ chức những trại huấn luyện Đội Chúng Trưởng, Huynh Trưởng Sơ Cấp và Cấp 1.

- Năm 1952, Hòa Thượng được Giáo Hội thỉnh cử làm Hội Trưởng Hội Phật Học Khánh Hòa.

          Công cuộc xây dựng và phát triển Phật giáo tại các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, có hiệu quả phần lớn là do công Hòa Thượng. Sự nghiệp này gồm có 4 công trình chủ yếu :
          1.- Kiện toàn các cơ sở hạ tầng của Giáo Hội và thành lập Ban trị sự toàn miền.
          2.- Thành lập Phật học viện Nha Trang.
          3.- Thành lập trường Bồ đề.
          4.- Thành lập những Gia Đình Phật Tử đầu tiên.
          - Năm 1956, Hòa Thượng đã vận động thành lập Ban tổ chức Đại hội Tổng hội Phật giáo Việt Nam lần thứ 2 tại Chùa Ấn Quang, Sài Gòn.
          - Năm 1957 - 1960, Hòa Thượng điều hành Phật sự tại các tỉnh miền Trung mà nhất là Thừa Thiên - Huế, cũng như tổ chức các trại họp bạn ngành Thiếu Gia Đình Phật Tử toàn quốc.
          - Năm 1963, Hòa Thượng cùng các bậc tôn túc lãnh đạo ủy ban liên phái Bảo vệ Phật giáo đòi hỏi chế độ nhà Ngô thi hành chính sách bình đẳng tôn giáo và công bằng xã hội.
           - Năm 1964, Đại hội Thống nhất Phật giáo, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ra đời, Hòa Thượng được thỉnh cử làm Tổng vụ trưởng Tổng vụ Thanh Niên.
           - Năm 1970, Hòa Thượng tham dự Hội nghị Tôn giáo và Hòa bình tại Tokyo, Nhật Bản.
            - Năm 1973, Hòa Thượng Thích Thiện Hoa viên tịch, Hòa Thượng đảm nhiệm chức vụ Quyền Viện trưởng Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
           - Năm 1974, Hòa Thượng được Đại hội cung thỉnh Cố vấn Hội đồng Viện Hóa Đạo và tham dự Hội nghị Tôn giáo và Hòa bình tại Louvain, Bỉ Quốc.

           Lịch sử đã sang trang, quê hương, dân tộc đã chìm vào sự cai trị nghiệt ngã của chế độ cộng sản Việt Nam. Đạo Pháp cũng trôi theo vận nước bềnh bồng vô định. Vào ngày 13 tháng 4 năm 1978, Cộng sản bắt giam Hòa Thượng tại Tổng nha Cảnh sát cũ, rồi chuyển sang trại Phan Đăng Lưu… và Hòa Thượng đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày 17.10.1978 sau 6 tháng 5 ngày bị nhốt trong xà lim tối tăm, đánh đập, tra tấn dã man của chế độ.

            Suốt cuộc đời phụng sự Đạo pháp, Dân tộc, Hòa Thượng là tấm gương sáng cho nhiều thế hệ mai sau. Hòa Thượng Thích Thiện Minh, người đã sống cái sống của con người đương đầu với bạo lực và khi chết cũng là cái chết của con người vô úy trước bạo lực.

           Hòa Thượng đã ra đi trong niềm đau thương vô hạn của dân tộc, trong nỗi thương tiếc vô cùng của toàn thể Phật giáo đồ Việt Nam. Cho đến hôm nay, tánh đức từ bi, tinh thần vô úy của Hòa Thượng vẫn luôn sáng ngời trong tận cùng tâm thức của mỗi đoàn sinh, huynh trưởng các cấp Gia Đình Phật Tử và ý thức Thiện Minh – Ý thức hòa bình dân tộc, ý thức bất diệt cho Đạo pháp luôn sáng ngời trên bầu trời quê hương và thế giới hôm nay.

           3.-  Tính khí khái và bất khuất của một bậc tôn giả, Hòa Thượng Thích Thiện Minh đã chết trong ngục tù cộng sản Việt Nam.

           Thừa hưởng dòng máu quật cường của dân tộc Việt và chí nguyện nhập thế độ đời kham nhẫn của đạo Phật, Hòa Thượng ung dung tự tại dù hoàn cảnh có nghiệt ngã hay khốn cùng. Vào năm 1978, Hòa Thượng đã chống gậy lang thang từ văn phòng Viện Hóa Đạo đến chùa Già Lam, từ chùa Già Lam qua chùa Pháp Vân, từ Pháp Vân đến Trung tâm Quảng Đức mà chẳng có nơi nào là chốn tạm dung, vì nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam không cấp hộ khẩu. Hòa Thượng tự biết rằng nhà tù là chốn dung thân. Hòa Thượng chuẩn bị hành trang với hai bộ quần áo, y hậu và một vài vật dụng cần thiết cá nhân, đợi ngày vào tù cộng sản và chính nơi đó là nơi an nghỉ cuối cùng. Cánh cửa nhà tù khép lại, chôn kín hình ảnh một kẻ sỹ xuất trần nhưng không thể vùi chôn chí nguyện hóa độ của bậc thượng nhân lợi tha giác ngộ.

           Ngôi làng Bích Khê, nơi quê hương đầu đời của Hòa Thượng, và cũng từ đó, từ mảnh đất nghèo khổ, khô cằn sỏi đá, từ vị trí địa dư lịch sử, địa đầu giới tuyến, bên dòng sông Thạch Hãn phân chia ranh giới Bắc Nam, ý thức "Thiện Minh" tạo dòng sinh mệnh Đạo Pháp quê hương được bắt nguồn từ đó, từ tinh thể của quận Triệu Phong kết thành người "Thiện Minh" lịch sử. Quảng Trị đêm mưa đông, ngày nắng hạ đã nuôi lớn trái tim dân tộc bằng liếp cải, nương dâu trong ý thức "Thiện Minh", người con trong lòng Đạo Pháp.

           "Thiện Minh" tên người lãnh đạo Giáo Hội Thống Nhất bất khuất mà cả một thế hệ tôn sùng, thành thiết đảnh lễ. Đảnh lễ để thấy mình đang học một bài học lịch sử sống mà Hòa Thượng Thiện Minh là hiện thân của dòng lịch sử đó. Dòng lịch sử dân tộc kiêu hùng; ngọn đuốc "Thiện Minh" soi đường tăm tối, xoáy tận vào lòng người, vào tâm can, lương tri của những con người bạo hành, phi nhân. Bài học "Thiện Minh" là bài học ngàn vàng mà thế hệ đã qua, thế hệ hôm nay hay thế hệ mai sau ai cũng phải học. Học cái can trường, học cái bất khuất, học cái dũng cảm, học cái hy sinh, học cái quên mình và học cái không thù hận giữa những người thù hận. Học cái trung cái nghĩa, cái từ bi, cái hỷ xã, cái trí tuệ của dòng dõi Tăng già Việt Nam. "Thiện Minh" con người của ý thức hệ, con người của lương tâm, con người của những con người đang sống, đang cưu mang lý tưởng hòa bình. Ý thức "Thiện Minh" được khơi nguồn và dẫn đi từ đầu đời dòng lịch sử dân tộc. Tự tính hào hùng trong ý nghĩa tự tri, bất khuất trong giá trị trí thức, can trường trong tự tính bảo tồn cái phải và không hận thù trong khả tính quyến thuộc từ bi. "Thiện Minh", tên người là những khả tính ấy.

          Ý thức "Thiện Minh" cho chúng ta bài học lịch sử mà Hòa Thượng đối đáp qua cuộc nói chuyện với người đại diện cộng sản Việt Nam, Mai Chí Thọ, trước chủ trương và lập luận bạo hành của chế độ. Mai Chí Thọ nói :  "Có thể các Thầy nói hàng ngàn người nghe, chúng tôi nói không ai nghe, nhưng chúng tôi có súng, có nhà lao, có quân đội. Tất cả chúng tôi có trong tay. Liệu các Thầy có chống đối được không và chống đối đến bao giờ ?"  Qua lời nói trên, chúng ta càng thấy rõ thái độ điềm tĩnh, tâm tư từ hòa của bậc đại sĩ bằng cái nhìn kinh nghiệm lịch lãm suốt một chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Hòa Thượng nói :  "Tôi nghĩ rằng có lẽ ông đã nói sai. Hơn ai hết ông biết rằng trong suốt thời gian đương đầu với Pháp và với Mỹ, kẻ khác chứ không phải là ông đã nói ra những câu tương tự như vậy. Lịch sử đã chứng minh rằng súng đạn và nhà tù không phải là tất cả, lại càng không phải là yếu tố tất thắng. Một Ngô Đình Diệm với chín năm cai trị bằng mật vụ ;  một Tần Thủy Hoàng với chính sách bạo ngược đốt sách, chôn học trò. Kết quả như thế nào ?  Đúng, chúng tôi một tấc sắt cũng không có trong tay và các ông thì có tất cả. Nhưng chúng tôi biết bài học lịch sử."           Bài học kinh nghiệm lịch sử cho thấy, lời nói của Hòa Thượng không bao lâu, các nước cộng sản Đông Âu đã sụp đổ. Cái nôi cộng sản Liên Xô cũng tan tành. Lời nói đó đã chứng minh cho cộng sản Việt Nam thấy không phải có đủ súng đạn, có dư nhà tù, quân đội là tất thắng.

          Nỗi tang thương hay niềm đau của dân tộc, hình ảnh của cố Hòa Thượng Thích Thiện Minh, người con trong lòng Đạo Pháp :  "Một gương mặt bầm tím với râu tóc mọc dài, yên nghỉ trong chiếc quan tài. Tất cả những phần còn lại của con người yên nghỉ đó đều bị che lấp, không ai biết có vết tích gì trên phần còn lại đó hay không ?"

          "Hòa Thượng Thích Thiện Minh, chiến lược gia của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, người đã từng ở tù trong cả ba chế độ, hôm 17 tháng 10 năm 1978 đã bỏ mình trong một nhà tù của cộng sản tại thành phố Hồ Chí Minh." Đây là tin của đài BBC London.

           "Hình ảnh cuối cùng của Thượng Tọa Thiện Minh mà người ta thấy, là một thi thể được che phủ kín mít, nằm tại một khu rừng ở Hàm Tân (Bình Tuy) ngày 18 tháng 10, 1978. Hòa Thượng Thích Trí Thủ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo là một trong số rất ít người được công an thành phố Sài Gòn cho phép đến thăm và nhìn thi thể của Thượng Tọa lần chót. Khi Hòa Thượng Trí Thủ giở tấm vải che mặt, những người chứng kiến xúc động, thấy khuôn mặt của Thượng Tọa bầm đen và râu tóc trắng xóa mọc dài. Những gì có thể thấy được và biết được về Thượng Tọa Thiện Minh chỉ có thế. Chính quyền cộng sản Việt Nam cũng muốn gói trọn cái thi thể và tất cả những tin tức về cái chết của Thượng Tọa Thiện Minh tại khu rừng Hàm Tân xa xôi, hẻo lánh." 
Sđd trang 68.

           4.-  Chí nguyện của bậc xuất trần - Sự nghiệp bảo vệ Đạo Pháp và quê hương.

           -  Kiến tạo nền hòa bình cho Việt Nam Dân Chủ tự do.

           Từ thủa sinh tiền, Hòa Thượng luôn hành hoạt bằng một sinh thái của bậc thượng sĩ, nghĩ trước cái nghĩ của người và làm trước cái làm của thế thường vốn có, do vậy, Hòa Thượng để tâm xây dựng một nền hòa bình cho quê hương dân tộc. Vì, suốt chiều dài lịch sử, kể từ thời mở nước, giữ nước cho đến hôm nay, trải qua bao nhiêu triều đại, chế độ, quê hương Việt Nam phần nhiều chịu nhiều thế lực và áp lực ngoại bang xâm lược, người dân sống trong cảnh lầm than của một tiểu quốc. Do vậy, hòa bình là điều kiện tất yếu phải có và giá trị của hòa bình phải được tái lập để dẫn khởi trong mọi lãnh vực xã hội và dân chủ, tự do, nhân quyền là sức mạnh sống của một nền văn minh, tiến bộ của con người. Hòa Thượng đã đem hết tâm huyết để dóng lên tiếng nói hòa bình, để khơi dậy ý thức hòa bình, cho dân tộc biết yêu thương nhau, biết xây dựng cho nhau ý thức sống dân chủ, tự do. Đây chính là tinh thần tự chủ, độc lập để bảo vệ quê hương, nuôi lớn dân tộc. Nhưng tiếc thay, tiếng nói hòa bình của Hòa Thượng đã bị dập tắt bởi những thế lực chính trị thời đại và tự thân của Hòa Thượng đã bị tù đày và ám sát thương đau. Nhưng dù cho Hòa Thượng bị ám sát, bì tù đày qua nhiều chế độ đương thời, ý thức và tiếng nói hòa bình của Hòa Thượng luôn tuôn chảy và in sâu trong tâm thức của dân tộc Việt, là sự nghiệp hằng hữu trong hàng triệu con tim của sinh dân Việt Nam, là ngưỡng vọng của loài người trên thế giới.

           -  Gìn giữ cương lĩnh để xây dựng và phát huy Giáo Hội Thống Nhất kể từ những ngày đầu năm 1964 thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Hòa Thượng là một trong các bậc tôn túc, đã dấn thân, chịu nhiều sự hi sinh kể cả thân mạng để giữ vững lý tưởng và sự tồn vong của Giáo Hội. Trong hội đồng viện, Hòa Thượng được thỉnh cử làm Tổng vụ trưởng Tổng vụ Thanh Niên, rồi quyền Viện trưởng và cố vấn Viện Hóa Đạo Giáo Hội Thống Nhất. Trong các ngôi vị này, Hòa Thượng đã lèo lái con thuyền Giáo Hội vượt qua nhiều thát gềnh thời đại, bao phong ba bão táp của cuộc đời mang nhiều thế lực manh động mà tự thân của Hòa Thượng đã hứng chịu bao gian nguy, thử thách. Hòa Thượng được danh xưng là chiến lược gia của Giáo Hội, phần lớn các hoạch định, phương án hành động đúng theo phương châm của hiến chương :  "Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không đặt sự tồn tại nơi nguyên vị cá biệt mà đặt sự tồn tại ấy trong sự tồn tại của nhân loại và dân tộc." Hòa Thượng đã đi theo phương châm của Giáo Hội là vì phúc lợi của dân tộc, vì sự thịnh suy của Đạo Pháp, quê hương mà Hòa Thượng đã dấn thân phụng sự trên mọi nẻo đường đất nước.

           Trong các ngôi vị quyền Viện trưởng Cố vấn chỉ đạo Viện Hóa Đạo đủ thấy tầm quan trọng của Hòa Thượng trong Giáo Hội. Do vậy mà trải qua bao thời đại, chẳng có thời đại nào để cho Hòa Thượng được bình yên. Hiện thân của Hòa Thượng trong Giáo Hội là sự hiện thân mẫu mực, nắm vững lập trường của dòng lịch sử Phật Việt.

           - Hàm dưỡng Gia Đình Phật Tử, học sinh sinh viên Phật tử, Hướng đạo thanh niên Phật tử, người cha tinh thần của nhiều thế hệ trẻ: Sau khi nhận chức Tổng vụ trưởng Tổng vụ Thanh niên, Hòa Thượng đã hết lòng chăm lo giới trẻ. Một mặt soạn thảo kế hoạch để thành lập Gia ình Phật Tử ở những miền chưa hội đủ điều kiện. Mặt khác lên chương trình hoạt động cho Gia Đình Phật Tử đã hình thành, để lấy đó làm bước tiến trên con đường tu học. Như đã nói, tự thân Hòa Thượng chống tích vân du, đến từng địa phương để mở ra những trại huấn luyện, gồm nhiều cấp bậc :  Trại huấn luyện Đàn Đội, Chúng trưởng, trại Lộc Uyển cho các huynh trưởng. A Nô Ma Ni Liên, Trại A Dục, Huyền Trang... 

            Là vị cha tinh thần, Hòa Thượng quan niệm rằng: thế giới người trẻ là thế giới nồng cốt cho mai hậu, là thế hệ của những người nắm vận mạng Đạo Pháp trong tương lai. Là trường cột, sức mạnh phụng sự cho lý tưởng dấn thân thượng cầu hạ hóa. Nếu tre tàn mà măng không mọc lấy đâu để duy trì Đạo Pháp. Bằng tấm lòng hàm dưỡng thế hệ trẻ của mình, Hòa Thượng hiểu và cảm thông thế hệ trẻ. Hòa Thượng đã gần gũi tâm tình, nói lên những kinh nghiệm của mình trong lúc tiếp xúc, hội họp, mà giờ này các anh chị trưởng lão thành mỗi khi đề cập đến Hòa Thượng, không ai không xúc động, bàng hoàng bằng tấm lòng thương kính, quí trọng.

           Hình bóng của Hòa Thượng là hình bóng của người cha già đối với tổ chức Gia Đình Phật Tử Việt Nam. Hòa Thượng đã giáo dục toàn diện cho lớp người trẻ, chính thực là một sự nghiệp hàm dưỡng người làm lợi đạo, ích đời, làm chân tố xây dựng một xã hội chân, thiện, mỹ. Sự nghiệp nuôi người cho Đạo Pháp và quê hương.
 

           5.-  Kết luận :

           Nói về cuộc đời và sự nghiệp của Hòa Thượng Thích Thiện Minh là nói đến tinh thần Thiền học, hay khả tính tu chứng của các bậc Tổ đức Thiền gia. Nói đến tinh thần nhập thế vì chúng sanh mà phát khởi bi nguyện hóa độ. Hòa Thượng hiện hữu vào đời mà không hề lưu vết tích. Hòa Thượng xả bỏ báo thân, nhẹ bước ra đi cũng chẳng mảy may in dấu bụi trần. Đến đi như nội dung bài kệ của Hương Hải Thiền sư :
"Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tích chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm."
           Là hàng hậu duệ, môn nhân, pháp phái của Đức đệ nhị Tăng thống, Hòa Thượng đã viết nên dòng lịch sử đại hùng bằng tiếng hống sư tử làm kinh sợ đến các loài sơn lâm, thảo khấu. Một khi công viên quả mãn, sự hóa độ vuông tròn thì Hòa Thượng lại :
"Nhất bát thiên gia phạn
Cô thân vạn lý du
Kỳ vi sanh tử sự
Giáo hóa độ xuân thu."
           Đó là hạnh nguyện của Bồ Tát, khi thì thỏng tay vào chợ để độ người cá tôm. Khi thì hòa quang đồng trần để :  "Thật tế lý địa bất thọ nhất trần. Phương tiện môn trung bất xã nhất pháp."
            Hôm nay, Ngày Về Nguồn lần thứ 5 tại Pháp Quốc, ngày Hiệp Kỵ Chư Vị Lịch Đại Tổ Sư tại ngôi chùa mang tên Hòa Thượng, Chùa Thiện Minh đã đi vào trang lịch sử hoằng pháp hải ngoại. Tất cả Chư Tôn Đức Tăng Ni hiện diện hôm nay, nhất tâm đảnh lễ Giác linh Hòa Thượng. Nguyện cầu Hòa Thượng xót thương gia hộ cho Đạo Pháp trường tồn, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được sớm phục hoạt để tiếp tục hoàn thành những Phật sự của Hòa Thượng còn dang dở. Và bằng tâm nguyện tự thủa sinh tiền, Giác linh Hòa Thượng thùy từ chứng giám cho một quê hương Việt Nam giàu đẹp, thái hòa; con dân Việt Nam ấm no, hạnh phúc và có đủ các quyền làm người tự do, dân chủ như ước nguyện của muôn dân./.

            --------------------------------------------------------------------------------
           [1] Tăng già Việt Nam, nhà xuất bản Phú Lâu Na, 1991, tr. 35. HT Trí Quang.
           [2]  Cố Hòa Thượng Thích Thiện Minh, 1983. Tr 65. Thích Mãn Giác.