Nộp Tiền Cho Rô-ma: 
  Đời Sống Bí Mật Của Tiền Bạc Trong Giáo Hội Ca-Tô
   (Render Unto Rome: The Secret Life Of Money In The Catholic Church)
   Author: Jason Berry; Crown Publishers, New York, 2011
   Trần Chung Ngọc
      Năm 1992, 10 năm trước vụ linh mục ấu dâm nổ ra ở Boston rồi lan ra  khắp thế giới cho tới ngày nay, Jason Berry, một tín đồ Ca-tô,  đã xuất  bản cuốn "Xin Đừng Dẫn Chúng Tôi Đến Cám Dỗ: Những Linh Mục Ca-Tô Và Nạn Ấu Dâm" [Lead Us Not To Temptation: Catholic Priests and the Sexual Abuse of Children],  nội dung nghiên cứu về các vụ linh mục ấu dâm trên một số Tiểu Bang  trên đất Mỹ với sự bao che của Giáo hội, như là một cảnh báo cho Giáo  hội để Giáo hội cải tiến.  Sau đó, năm 2004, Jason Berry và Gerald Renny  xuất bản cuốn "Lời Nguyện Giữ Im Lặng: Sự Lạm Dụng Quyền Năng Trong Triều Chính Của Giáo Hoàng John  Paul  II" [Vows of Silence: The Abuse of Power in the Papacy of John Paul II], nội dung tập trung vàođời sống bệ rạc của Linh mục Marcial Maciel, sáng lập viên "đoàn quân Lê Dương của Chúa Ki Tô"  [Legionaries of Christ] trong tổ chức "Legion of Christ" do Marcial  Maciel ở Mexico lập ra, và lên án John Paul II đã làm lơ những tố cáo  của quần chúng về những vụ ấu dâm và dùng ma túy của Marcial Maciel. Vì  vậy, thế giới đã phanh phui ra là tổ chức "Legion of Christ" có một  Chương lịch sử chính là "Xì-căng-đan lạm dụng tình dục" [The sexual abuse scandal in the Legion of Christ is a major chapter in the order's history.] 
      Chính sáng lập viên Marcial Maciel đã nhiều lần bị điều tra về dùng ma túy và loạn dâm với những trẻ em [During his life, Maciel was the focus of several investigations regarding allegations of drug abuse and sexually abusing children.]   Nhưng Maciel rất được Giáo hoàng  John Paul II ưu ái và tận tình bao che vì Maciel đã kiếm được nhiều  tiền cho Giáo hội và lùa được nhiều Linh mục vào trong cái dòng tu lính  Lê Dương của Giáo hội, nên John Paul II đã làm ngơ trước những lời tố  cáo Maciel [Pope John Paul II admired Maciel because of his  conservative fealty to doctrine and his ability to raise money and  recruit priests.]  Nhưng rồi đời sống bê bối của Maciel càng ngày  càng bị phanh phui ra nhiều nên khi lên ngôi Giáo hoàng, Benedict XVI  không còn có thể che dấu được nữa nên giao cho Hồng Y Bertone nhiệm vụ  điều tra sự việc liên quan đến Maciel..  Benedict XVI, khi còn là Hồng Y  Ratzinger đã từng nói: "Tố cáo Maciel không được khôn ngoan (prudent) vì Maciel đã làm nhiều điều tốt cho Giáo hội"  (To go after Maciel is not "prudent" because he has  done so many good for the church). Bất cứ ai mà kiếm được nhiều tiền  cho Vatican thì dù đạo đức của họ có tồi tệ như thế nào đi chăng nữa,  Vatican cũng bỏ qua. 
    Do đó, Bertone điều tra cũng như không,  ông  ta bắt các nạn nhân tình dục của Maciel thề phải giữ bí mật những  chuyện xẩy ra đối với họ và kết quả cuộc điều tra về Maciel không đi đến  đâu. Vì sự trung thành này mà ông ta được cho làm Tổng Giám Mục ở  Genoa, rồi thăng chức lên Hồng Y, và nay là Bộ trưởng Ngoại Giao. [He  swore all the victims to secrecy and ended up doing nothing about  Maciel. For his loyalty he was named archbishop of Genoa, then Cardinal,  and now Secretary of State.]  Nhưng trước dư luận quần chúng và dư luận  ngay trong Giáo hội Ca-tô, vào tháng 5, 2006,  tòa án Kangaroo của  Benedict XVI đưa ra biện pháp kỷ luật (sic) bắt Maciel  phải  "sống kín đáo, cầu nguyện và sám hối" và không hề giải thích cho quần chúng biết [In May 2006, Pope Benedict XVI disciplined him, inviting him to "a reserved life of prayer and penitence"; no explanation was given to the public.]   Đó là công lý Ca-tô trước sự đau khổ và tổn thương tinh thần của các em  nhỏ trong Giáo hội bị Linh mục Marcial Maciel cưỡng bách tình dục..
     Tháng 6, 2011, Jason Berry cho ra mắt cuốn Render Unto Rome: The Secret Life of Money in the Catholic Church, nội  dung nghiên cứu sâu vào nền văn hóa  (culture) của Giáo hội Ca-tô, đặc  biệt là trước những thắc mắc về vấn đề tiền bạc và tình dục, tác giả  thấy rằng, sự đáp ứng của Giáo hội luôn luôn giống nhau: giữ kín và im  lặng. [To painful questions about money and sex, Berry finds, the  response of the church is always the same – secrecy and silence].  Tác  giả đang du hành qua một số tiểu bang để ra mắt và ký tên trên cuốn sách  của mình (Book tour).
     Cuốn sách dày hơn 400 trang trên cho chúng ta biết rất nhiều chi tiết  về những vấn đề liên quan đến tiền bạc và tình dục trong Giáo hội Ca-tô  và chính sách của Giáo hội đối với những vấn đề này.  Có những chi tiết  mà chúng ta không thể ngờ được lại có thể xẩy ra trong một tổ chức tôn  giáo luôn luôn tự nhận là "thánh thiện, duy nhất và tông truyền".  Chúng  ta cũng không thể ngờ là đạo đức của Giáo hoàng và một số bậc lãnh đạo  cao cấp nhất của Giáo hội như Hồng Y, Tổng Giám mục v..v… lại tệ mạt đến  độ như vậy.  Sau đây chỉ là vài chi tiết trong cuốn sách trên, đọc giả cần phải  đọc  cả cuốn sách mới có thể nhận thức được bộ mặt thánh thiện giả nhân giả nghĩa của Giáo hội Ca-tô.
     Vấn đề tiền bạc lem nhem của Vatican thế giới đã biết từ lâu, từ những vụ rửa tiền đến buôn lậu ma túy, cho đến buôn bán vũ khí bất hợp pháp v…v…  Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang đã viết một tác phẩm đồ sộ nhan đề: "Giáo Hội La Mã: Lịch Sử Và Hồ Sơ Tội Ác" trong đó có một Chương dài, Chương 91, "Vấn Nạn Buôn Bán Ma Túy"  về chi tiết những vụ buôn lậu ma túy của Vatican, xin đọc giả đón đọc  nay mai khi Sách Hiếm trở lại.  Nếu chúng ta đã đọc những cuốn như The Totalitarian Church of Rome: Its Fuehrer, Its Gauleiter, Its Gestapo, and Its Money-Box của Linh mục Joseph  McCabe, The Vatican Billions của Avro Manhattan, Christianity and  Money của Jacques Leclercq, The Vatican Connection của Richard Hammer, Pontiff của Gordon Thomas & Max Morgan-Witts và nhất là cuốn The Vatican's Mafia của Đức Ông Rafael  Rodríguez Guillén và những thông tin trên Internet thì chúng ta đã biết  vấn đề tiền bạc trong một tổ chức thế tục tự nhận là "mạc khải, thánh  thiện, duy nhất, tông truyền" là như thế nào.  "Thủ tục "đầu tiên"" có  thể nói là cái "norm" trong mọi dịch vụ xin-cho ở Vatican.
     Lâu lắm rồi, tôi có đọc được như sau, không biết có phải là một cái  "joke" hay không: "Ở Vatican, với 1000 đô bạn có thể hôn nhẫn một ông  Giám mục, 2000 đô, bạn có thể hôn nhẫn một ông Hồng Y, và 5000 đô thì   bạn có thể hôn bất cứ cái gì (You can kiss anything)."  
     Nhưng cuốn sách mới của Jason Berry rất đặc biệt, vì đã đào sâu vào hệ  thống tiền tài (financial system) của Giáo hội Ca-tô.  Đặc biệt là hai  vấn nạn trong Giáo hội: Tiền bạc và Tình dục lại liên hệ khắng khít với  nhau. Tác giả đã vạch trần chính sách giữ bí mật và lừa  dối của Giáo hội, trái ngược hẳn với những giá trị tâm linh và đạo đức  mà Giáo hội tự nhận ("Render Unto Rome" exposes the secrecy and deceit  that run counter to the values of the Catholic Church)
     Giáo dân thường được dạy là có bổn phận đóng tiền thường xuyên cho nhà  thờ để nhà thờ làm việc thiện và hầu việc Chúa.  Ở Vatican, tín đồ  thường  đóng tiền để cho "Đức Thánh Cha làm việc thiện" (For our  Holy Father to do charitable work) nhưng thực ra tín đồ không hề biết  những tiền đó đi đâu và dùng vào việc gì.  Tác giả viết: 
    Dịch  vụ thu tiền ngày chủ nhật trong các nhà thờ Ca-tô trên toàn thế giới  thì quen thuộc như là lễ Mi-sa, bài giảng trong nhà thờ  và ngay cả  lễ  ban thánh thể (ăn bánh thánh).  Nhưng khi một đô-la để vào giỏ, thì nó  đi đâu?  Số tín đồ đóng hàng tuần lên tới nhiều ngàn đô-la được dùng như  thế nào?  Khi một giáo khu bán đi tài sản của nhà thờ với giá hàng chục  triệu đô-la thì tiền đó đi đâu.  Và việc gì đã xẩy ra khi nhiều chục  triệu đô-la được đưa cho các giới chức cao cấp để tiêu dùng tùy ý mà  không có ai hỏi han đến?
     [The Sunday collection in every Catholic church throughout the world is  as familiar a part of the Mass as the homily and even Communion.  But  once a dollar is dropped in that basket, where does it go?  How are  weekly cash contributions that can amount to thens of thousands of  dollars accounted for?  Where does the money go when a diocese sells a  church property for tens of millions of dollars?.  And what happens when  tens of millions of dollars are turned over to officials at the higher  ranks, no question asked, for their discretionary use?]
 Jason Berry
 (Link: http://blogs.riverfronttimes.com/dailyrft/2011/06/jason_berry_catholic_sex_abuse_st_louis.php )
         Bao nhiêu tiền vào túi các Giám mục.  Bao nhiêu gửi về Rô-ma?  Lẽ dĩ  nhiên các tín đồ không hề biết.  Họ đến nhà thờ cầu nguyện, xưng tội, và  đóng tiền, vì họ được dạy đó là bổn phận của họ, một điều kiện để các  Linh mục cho họ lên thiên đường.  Đã có một thời, không đi lễ ngày chủ  nhật là một trọng tội, không được lên thiên đường.  Và đi lễ ngày chủ  nhật có nghĩa là ít nhiều cũng phải bỏ tiền vào giỏ.  Nhưng ngày nay số  người đi lễ nhà thờ chẳng còn lại bao nhiêu trong các thế giới Tây  phương, trừ những nước ở Phi Châu, Nam Mỹ, hay ở Mễ Tây Cơ, Phi Luật Tân  và…Việt Nam.  Đây là lý do mà Ca-tô cũng như Tin Lành đang nỗ lực đi  kiếm ăn ở những miền đất mới, nơi đây khó khăn kinh tế xã hội và dân trí  tương đối còn chưa phát triển nhiều, cho nên người dân ít đầu óc rất dễ  rơi vào cái thòng lọng của Ki Tô Giáo nói chung..
      Nếu tín đồ không hề biết tiền mình đóng cho nhà thờ đi đâu, được dùng  vào việc gì, thì tác giả Jason Berry đã hé mở cho chúng ta nhiều chi  tiết.
 -    Nhiều giáo dân Mỹ phát cáu lên (were riled) về sự quản lý tiền bạc của  các Giám mục: Những số tiền lớn dùng để dàn xếp những vụ loạn dâm và  biến chế để tái dụng những linh mục can tội ấu dâm; [Tác giả  dùng từ  ngữ (bishops who recycledpedophiles), coi những linh mục  này như là những đồ rác rưởi, được biến chế để dùng lại như trong kỹ  nghệ.], dẹp tiệm các nhà thờ ngoài ý muốn của giáo dân (churches closed  against the people's will), [p. 7: Từ 1995, Giám mục các nơi đã phải dẹp  tiệm 1373 nhà thờ.] và các phúc trình về các linh mục và nhân viên điều  hành ăn cắp tiền của nhà thờ (continuing reports of priests  or  lay staffers who stole parish funds).  Mỹ là xứ giầu và con chiên  thường là ngu đạo nhất thế giới, cho nên tiền đóng cho nhà thờ và gửi về  Vatican, Mỹ giật giải quán quân.  Theo ước tính, số tiền của giáo dân  đóng góp bị các "bề trên" và các nhân viên dân sự điều hành nhà thờ ăn  cắp trung bình là $50,000 trong một năm cho mỗi giáo xứ.  Tổng cộng trên  toàn quốc số tiền bị thất thoát vào khoảng 90 triệu/năm ($90 million),  đó là chỉ kể tiền đóng góp ngày chủ nhật. [p. 10: An annual loss of a  bout $90 million solely attribuable to Sunday collection  embezzlements].  Tất cả những điều này làm cho giáo dân cảm thấy mình bị  phản bội.
 -    Nguyên trên nước Mỹ, Giáo hội đã phải bỏ ra 2 tỷ đô-la để giàn xếp  ngoài tòa hoặc đền bù  cho các nạn nhân tình dục của các "Chúa thứ hai".
 -    Nhiều giáo khu đã khai phá sản, và các Giám mục địa phương đã rao bán  các nhà thờ, trường học Ca-tô, và các tài sản thương mại (Bishops have  been selling off whole pieces of infrastructure – churches, schools,  commercial properties).
     Nhưng các Hồng Y ở Vatican đều có thông tin nội bộ về tài sản nào sẽ  được bán đi và dựa vào thông tin đó họ có một kế hoạch để làm giầu cho  chính họ và thân nhân trong những vụ bán tháo đó tài sản đó.  [Vatican  curial cardinals have inside information about which church properties  will be available for sale and they have enriched themselves and their  relatives by passing on that information.]
     Một trường hợp điển hình là ở Boston, một cơ sở của Tổng giáo phận được  bán dưới giá thị trường cho cháu một Hồng Y có thế lực nhất ở Vatican,  Hồng Y Sodano, nguyên Bộ Trưởng Ngoại Giao dưới triều John Paul II, với  giá là $850.000,  nhưng chỉ 20 ngày sau, sở hữu chủ mới của cơ sở này  bán lại với giá $2,650,000 [In East Boston, the archdiocese sold a  parish for $850.000 and 20 days later the new owner, the nephew of one  of the Vatican's most powerful cardinals, "flipped" it for  $2,650,000.].  Điều đáng nói là ông Giám mục cai quản giáo phận quyết  định bán cho ai và với giá bao nhiêu, dù rằng có người ngoài hay tổ chức  bên ngoài muốn mua với giá  cao  hơn, và lẽ dĩ nhiên ông Giám mục cũng có phần trong đó..
 -    Các tín đồ không biết là  cuối thập niên 1990, Hồng Y Anthony  Bevilacqua ở Philadelphia đã tiêu 5 triệu đô-la để làm mới lại một nhà  nghỉ mát của Giáo phận ở bờ bể New Jersey, nhà tư của Hồng y ở  Philadelphia, và ba tòa nhà làm văn phòng.  Ông ta một mình ở một tòa  nhà có 30 phòng (He has lived alone in a 30-room stone-clad Victorian  villa),  trang bị toàn đồ sang trọng như những tấm gương viền vàng  (gilded-edged mirrors), ghế hiệu Queen Anne  (Queen Ann chairs), đèn  đồng (brass chandeliers) v…v…  Và ông ta là một chức sắc cao cấp nhất  của Giáo hội  Ca-tô, sống như vậy để phục vụ dân nghèo, vì Giáo hội  Ca-tô  vẫn quảng cáo là Giáo hội của dân nghèo, và các con chiên Việt Nam vẫn  thường ca tụng như vậy.
 -   Một điều mà các giáo dân rất ít biết đến là tiền của giáo dân đóng góp thường được các bề trên dùng để mua quan chức ở Vatican.  Muốn trở thành một Giám mục, cá nhân đó hay giáo khu đó, phải trả một lệ phí cho Vatican gọi là "taxa",  tùy theo giáo khu đó giầu hay nghèo.  Khi Joe Bernadin ở Chicago được  thăng chức Hồng Y, lệ phí đó là $6000.  Luật sư Tom Doyle về giáo luật  của Giáo hội cho rằng như vậy là rất rẻ [Trang 7:  On becoming a bishop,  a man – or his diocese – pays a fee to the Vatican called "taxa".  "The  amount varies according to the size of the diocese," explains Tom  Doyle, a Dominican on leave from the priesthood who serve the  canon lawyer at the Vatican embassy in the early 1980.  "I remember  when Joe Bernadin of Chicago was made cardinal, the taxa was $6,000.  I  thought Chicago got a good deal on that one".]  Mua quan, bán chức trong  Vatican không lạ gì, nếu chúng ta đã đọc cuốn The Vatican Mis À Nu (Traduit  de l'Italien par Pierre-Émmanuel Dauzat, Edition Robert Laffont, Paris,  2000) của Đức Ông Luigi Marielli.  Trong đó độc giả sẽ thấy một hình  ảnh Vatican mục nát, không mũ mãng, quần áo lòe loẹt trang trí bên  ngoài. Cuốn sách này là con dao mổ xẻ của tác giả đã đâm ngập vào một  vết thương sâu (ce livre est un bistouri plongé dans une plaie profonde)  với hi vọng có thể cắt bỏ những máu mủ độc hại trong đó.  Tác giả đã  vạch trần bộ mặt vô tín vô  luật (sans foi ni loi) trong trung tâm chỉ đạo của Giáo hội Ca-tô Rô-ma (Curie Romaine) gồm  hầu hết những kẻ chạy chọt làm áp-phe, chạy theo chức tước, đồng giống  luyến ái, tranh chấp phe đảng, và những phương cách để được thăng chức  nhanh chóng... (Affairisme, carriérisme, homosexualité, la  course aux postes, la lutte des clans, des instruments de promotion  accélérée...)  Đó là bộ mặt thật của Vatican, tổng hành dinh của Ca-tô  Rô-ma Giáo, cơ quan đầu não chỉ dạy đạo đức Ca-tô Giáo cho 1 tỷ giáo  dân, trong đó có 7 triệu người Việt Nam.  Nhưng không phải chỉ có chuyện  mua quan bán chức, mà ngay cả chuyện các giáo hội con muốn phong thánh  cho người nào của mình cũng rất tốn tiền, lệ phí có thể lên đến hàng  triệu đô-la để cho các quan  chức ở Vatican xét và làm thủ tục.
  -   Tổng giám mục Rembert Weakland ở Milwaukee gửi 1 triệu rưỡi đô la ($1.5  million) về Vatican mua danh ngôi vị dạy xã hội học tại đại học  Gregorian của Giáo hoàng (Pontifical Gregorian University).  Năm 1998,  Tổng Giám mục Weakland còn dùng quỹ của nhà thờ trả cho một tình nhân Nam từ  nhiều năm trước $450,000 để mua sự im lặng (p. 4: Archbishop Rembert  Weakland had used $450,000 in church funds in 1998 to pay off a  disgrunted male lover from year before.)
    Trên đây chỉ là một số chi tiết  điển hình trong cuốn Render Unto Rome của Jason Berry.  Vài điều đó cũng đủ cho chúng ta biết sơ về nội dung cuốn sách. 
   Vài Suy Tư Của Người Đọc Sách:
       Càng đọc về Ca-tô Rô-ma Giáo tôi càng cảm thấy buồn và tội nghiệp cho  các tín đồ Ca-tô Việt Nam, trí thức hay không.  Không tội nghiệp sao  được vì rõ ràng là họ bị nhốt trong một tù ngục tâm linh qua chính sách  rất hữu hiệu của Giáo hội: "Ngu dân dễ trị" cộng với sự khai thác những  kẻ "tinh thần yếu kém" mà chính Chúa Giê-su đã dạy: "Phúc cho những kẻ nào tinh thần yếu kém" trong bài giảng trên núi hay Tám Mối Phúc Thật.  Một thủ đoạn tuyệt vời khác rất thành công của Giáo hội là Giáo  hội luôn luôn mang Chúa ra làm bung xung để đạt những mục đích thế  tục  của mình, do đó có thể  cấy vào đầu các tín đồ cái gọi là "đức vâng  lời", thực chất chỉ là mánh mưu nô lệ hóa tín đồ. Và điều đáng buồn là  các tín đồ cứ tự mình cam tâm làm nô lệ.   Điều này rõ ràng nhất trong  vài câu sau đây trong bản văn của Vatican:
   Bản tiếng Việt:  "Trước hết, bản văn xem xét chủ đề đức vâng lời tu sĩ, gốc của nó được thấy trong sự tìm kiếm Chúa và ý muốn của Chúa là điều đặc biệt đối với những tín hữu"
      Bản tiếng Anh:  "Đức vâng lời", tài liệu của Vatican nói rằng, phải nên hiểu bởi tín hữu như là "một con đường để giúp cho cộng đồng và tổ chức tìm kiếm Chúa và hoàn thành ý muốn của Chúa"  
        [Obedience,  the Vatican document says, should be understood by religious as "a way  to help the community or institute to seek and achieve the will of God.]
       Các tín đồ không hề biết là từ xưa tới nay chẳng có Giáo hội nào hay  cộng đồng, tổ chức nào có thể tìm kiếm được Chúa, vì Chúa đã chết cách  đây khoảng 2000 năm rồi, và từ đó tới nay chẳng ai biết Chúa ở đâu, và  ông ta cũng chẳng bao giờ trở lại, dù chỉ một lần cho thiên hạ thấy.   Các tín đồ cũng không biết rằng chẳng ai biết ý Chúa là như thế nào.   Thật vậy, Voltaire đã từng nói: "Lời của Chúa là lời của các  linh mục; sự vinh quang của Chúa là sự hãnh diện của các linh mục; ý của  Chúa là ý của các linh mục; xúc phạm Chúa là xúc phạm các linh mục; tin  vào Chúa là tin vào mọi  điều linh mục nói (The word of God is the word of the priests; the  glory of god is the pride of the priests; the will of god is the will of  the priests; to offend god is to offend the priests; to believe in god  is to believe in all that the priests tell us.).
     Cũng vì cái "đức vâng lời" có tác dụng nô lệ hóa đầu óc tin đồ này của  Giáo hội mà khi xưa, Ca-tô Rô-ma Giáo ở Việt Nam đã trở thành tội đồ của  dân tộc, vết nhơ nô lệ ngoại bang, phi dân tộc, phản quốc khi thực dân  Pháp xâm chiếm Việt Nam vào thế kỷ 19, và trở lại Việt Nam cuối thập  niên 1940, còn in đậm trên khuôn mặt Giáo hội.  Chúng ta còn nhớ, gần  đây nhất Tổng Giám mục Ngô Quang Kiệt đã huy động giáo dân, già trẻ lớn  bé, mang búa, kìm và xà beng đến cầu nguyện ở tòa Khâm sứ cũ, và mặc dù  nhà nước đã khuyên can, đám người cuồng tín đó đã chẳng coi pháp luật  quốc gia vào đâu.  Nhưng chỉ một  văn thư của Hồng Y Bertone từ Vatican gửi đến là cả đoàn đã phải không  kèn không trống, dẹp cờ xí, búa, kìm, và xà beng rút lui có trật tự.  Mà  Hồng Y Bertone là ai?  Chính là cái tên đã được giao cho nhiệm vụ điều  tra tên Linh mục  loạn dâm vô đạo đức Marcial Maciel, nhưng thay vì điều  tra thì ông ta lại bắt các nạn nhân tình dục của Maciel thề phải giữ bí mật và kết quả cuộc điều tra về Maciel đương nhiên là chìm xuồng.   Tâm cảnh nô lệ ngoại bang thật đã rõ ràng, nhắm mắt mà tuân lệnh một tên Hồng Y vô đạo đức ở Vatican . 
       Tháng 11, 2009, Giáo Hội Ca-tô Rô-ma tại Việt Nam tưng bừng đón tiếp  Hồng Y Bernard Law trong dịp khai mạc cái gọi là "năm Thánh", kỷ niệm 50  năm  năm thành lập Hội Đồng Giám mục Việt Nam, 50 năm nô lệ cho đến  ngày nay.  Vụ Tổng Giám Mục nhục nhã Ngô Quang Kiệt tuân phục "đức vâng  lời" đối với Bertone đã chứng tỏ như vậy.  Mà Hồng Y Bernard Law là ai?   Là nguyên Tổng Giám Mục ở Boston, can tội bao che và "recycle" các linh  mục loạn dâm và ấu dâm trong địa phận cai quản của ông ta.  Law được  John Paul II cho phép từ chức Tổng Giám Mục ở Boston cuối năm 2002, và  chuồn sang Vatican chỉ mấy giờ đồng hồ  trước khi trát tòa đến đòi ông ta ra hầu tòa.  Ở Vatican ông được John  Paul II cho cai quản một nhà thờ quan trọng ở Rome, nhà thờ St. Mary  Major Basilica.  [The news of Cardinal Law's new position seemed to tear at emotional scars from those events. ''It's  pretty offensive for most Catholics, and the timing couldn't be  worse,'' said David Gibson, author of ''The Coming Catholic Church''  (Harper San Francisco, 2003). ''They're just cleaning up the mess in  Boston and closing parishes, and he's getting the ultimate golden  parachute. He's getting a beautiful apartment in Rome in one of the four  major basilicas in Christendom.'' Tập đoàn ở Vatican bao che cho nhau, bất kể sự phẫn nộ của thế giới và các nạn nhân tình dục ở Boston,  đạo đức của "Hội thánh" Ca-tô là như vậy đó…
     Một tên vô đạo đức như Hồng Y Law mà được Giáo hội Ca-tô ở Việt Nam đón  tiếp coi như thượng khách trong dịp khai mạc năm Thánh.  Trong Ca-tô  Rô-ma giáo thì cái gì cũng là thánh cả.  Không kể một số không nhỏ các  giáo hoàng trong lịch sử giáo hội Ca-tô hoàn vũ can những tội như ăn  cắp, giết người, loạn luân, đồng giống luyến ái v..v…, những Giáo hoàng  vô đạo đức gần đây như John Paul II và Benedict XVI cũng là "đức Thánh cha".  Lễ lạc để mê hoặc tín đồ cũng được gọi là thánh lễ.  Abraham, bán vợ cho hai Vua Ai Cập để đổi lấy của cải và súc vật cũng được gọi là  "thánh tổ phụ của các đạo Chúa".  Thánh Lot ngủ với hai con gái và làm cho cả hai chúng mang bầu.  Thánh David,   ông tổ của Giê-su,  nguyên là một tên tướng cướp, sau lên làm Vua thì  hoang dâm vô độ, có nhiều vợ mà còn ra lệnh giết thuộc hạ để cướp vợ của  thuộc hạ.  Thánh Linh thì ngủ với Mary để sinh ra Giê-su.  117  tội đồ của Việt Nam cũng được cái "Xưởng sản xuất thánh = Vatican", từ  của Hồng Y Silvio Oddi, phong làm thánhcủa Ca-tô Giáo.  Giáo hội cứ luôn luôn lạm dụng bừa bãi danh từ "thánh"  mà không hề biết ngượng.  Một độc giả ở Úc, ông Nguyễn Hữu Ba, đã nhận  định: Con người một khi vào Ca-tô giáo rồi thì trong đầu không còn  những giây thần kinh "biết ngượng" nữa.
     Các tín đồ Ca-tô Việt Nam thường bào chữa cho các "bề trên" loạn dâm  hay làm bậy của họ là đó chỉ là những cá nhân không thi hành lời Chúa.   Nhưng họ quên mất một điều, giáo hoàng là những "đại diện của Chúa trên  trần" mà họ thường gọi là Đức Thánh Cha, và các Linh mục loạn dâm đều là  các "Chúa thứ hai" mà họ tin là "Cha cũng như Chúa".  Và nhất là họ  phải tuyệt đối vâng lời những người như vậy, vì đó là điều kiện Giáo hội  đặt ra để họ có được cái vé lên thiên đường (mù), lẽ dĩ nhiên là sau  khi chết.
 Những vụ phá sản đạo đức trong Giáo hội Ca-tô Rô-ma nhiều đến độ khó ai có thể lôi ra ánh sáng hết được. Chúng ta hãy đọc đoạn sau đây của Tiến sĩ Loraine Boettner trong cuốn "Roman Catholicism", trang 27:
       Muốn thế nào thì thế, người Ca-tô không thể phủ nhận được cái lịch sử ô  nhục đẫm máu của Giáo hội, kéo dài cho tới ngày nay. Cái lịch sử đã  giết hàng trăm triệu người già trẻ lớn bé trong các cuộc Thánh Chiến,  các Tòa Hình Án xử dị giáo, các cuộc săn lùng phù thủy, tra tấn rồi  thiêu sống, khoan kể đến chuyện thiêu sống hay trừng phạt cả những khoa  học gia trong giáo hội như Giordano Bruno và Galieo Galilei v..v…  Người  Ca-tô cũng không thể phủ nhận là đạo đức Ca-tô chẳng có gì có thể so  sánh với đạo đức trong các tôn giáo khác hoặc với những người vô thần,  dù họ muốn huênh hoang tự khoe thế  nào đi  chăng nữa.  Lịch sử phá sản đạo đức của một số không nhỏ Giáo hoàng  cũng như các bậc chăn chiên như Hồng Y xuống tới các Linh mục là những  sự kiện bất khả phủ bác.  Rút cuộc, tôi vẫn không hiểu người Việt Nam  theo Ca-tô Rô-ma Giáo là vì cái gì?  Và vì cái gì mà họ vẫn tin rằng  Ca-tô Giáo là một "hội thánh", VietCatholic.net vẫn huênh hoang "Con đường của Giáo hội là con đường vinh quang",   và tiếp tục tự giam mình trong vòng ngu tối để cho những bề trên xảo  quyệt khai thác, đớp và mắc vào cái mồi "cứu rỗi" rất khó gỡ ra, trừ phi  ý thức được đó chỉ là một cái bánh vẽ trên trời, và có một chút can đảm  như hàng triệu tín đồ trên thế giới đã tự mình gỡ ra được..
     Phải chăng vì những giá trị đạo đức của Ca-tô giáo mà họ vẫn thường  huênh hoang tự đề cao mà không biết ngượng?  Nhưng có giá trị đạo đức  nào mà không có trong dân gian, trong bất cứ xã hội hay tôn giáo nào, và  ngay cả trong tập thể những người vô thần?  Việt Nam có đầy đủ những  tiêu chuẩn đạo đức và tâm linh để cho người dân tu tập một cách lành  mạnh mà không cần đến cái đạo mà lịch sử ô nhục đẫm máu của nó đã là một  vết nhơ trong lịch sử nhân loại: Ki Tô Giáo.  Những điều dạy mà các  tín đồ cho là Ki Tô Giáo dạy về đạo đức thì đã có trong mọi nền văn hóa  dân gian, nhiều khi  còn  hay hơn nữa.  Quý vị hãy thử kể ra điều nào thuộc lãnh vực đạo đức của  Ca-tô Giáo, không phải là lãnh vực tin, mà chưa hề có trong dân gian hay  trong nền văn hóa Việt Nam.  Người Việt Nam yêu người, "thương người  như thể thương thân", mà không cần phải kính Chúa, vì Chúa chẳng qua chỉ  là một người dân thường Do Thái, trí tuệ kém cỏi và lòng dạ độc ác như  được viết rõ trong Tân Ước.
     Người Ca-tô thường thổi phồng bộ mặt từ thiện của mình cho đó là một  điểm son của Ca-tô giáo.  Chẳng có lẽ ngoài Ki Tô Giáo không có ai làm  việc thiện hay sao.  Nhưng nghiên cứu kỹ thì chúng ta thấy rằng Ca-tô Giáo làm việc thiện hầu hết là với tâm bất thiện chứ  không phải là thuần túy từ thiện tâm.  Một khuôn mặt từ thiện mà Ca-tô  giáo thổi phồng đánh bóng nhất là Mẹ Teresa ở Calculta.  Nhưng họ không  hề biết bộ mặt thật của Mẹ Teresa.  Bà ta khẳng định là làm việc thiện  chỉ để kiếm thêm tín đồ cho Chúa, và bà ta còn tàn nhẫn nói rằng những  sự khổ trên thế giới là cơ hội  để bà ta làm việc thiện, hầu việc Chúa.     Có một câu tôi đọc, tuy  không lấy gì làm lạ, nhưng có lẽ rất lạ đối với các tín đồ Công giáo  Việt Nam, những người thường mang mẹ Teresa ra làm khuôn mẫu thánh thiện  của Công giáo.  Đó là câu "Mẹ Teresa không phải là một nữ tu đầu tiên đã lợi dụng những hoàn cảnh khốn khổ của các nạn nhân của Mẹ để biến thành tiền" [Mother  Teresa was not the first abusive nun to turn her victim's plight into  cash.]  Thật vậy, nếu chúng ta đã đọc Judith Hayes viết trong cuốn The Happy Heretic,  trang 69, thì có thể biết bộ mặt thật của nữ tu Teresa mà mọi người Công giáo ngu ngơ coi như bậc thánh như sau:
     "Nhân danh Thiên Chúa" bà Teresa đã thu được hàng triệu đô la rồi vội  vàng dấu kín nó đi như một con sóc để dành thức ăn cho mùa Đông.  "Nhân  danh Thiên Chúa", bà ta cũng cải đạo nhiều người trước khi họ tắt  hơi...  Tôi tự hỏi, trong cái tầm nhìn thô thiển của bà ta, có phải là  bất cứ bà làm điều gì cho Thiên Chúa là để cho bà được điểm cao (như các em hướng đạo sinh đi bán bánh kẹo, ai bán được nhiều thì được đoàn trưởng gắn huy chương khen thưởng. TCN) trong  đời sau.  Có lẽ đối với bà ta thế giới này  không  hề có một ý nghĩa nào, chẳng qua chỉ là cái mê hồn trận thách đố của  Thiên Chúa để quyết định xem ai chiếm được mẩu tốt nhất trên thiên  đường.  Nếu thật là như vậy thì chúng ta có thể giải thích,  vì không có  gì khác có thể giải thích được, tại sao bà ta có thể nhẫn tâm ngồi trên nhiều triệu đô la như vậy trong khi trẻ con, ngay cả ở nơi bà hoạt động ở Ấn Độ, đang chết đói.   Điều này chống lại mọi giải thích hợp lý, và tôi thách đố bất cứ ai, từ  Morphew cho đến chính giáo hoàng, có thể giải thích được sự kiện đó.
     [Teresa collected her millions of dollars "in the name of God" and then  promptly hid them away like a squirrel readying for winter.  She also  converted  souls "in the name of God", many just before they expired... I  wonder if, in her simplistic view of things, anything she did for God  would earn her big-time brownie points in the afterlife.  For her,  perhaps, this world had no meaning whatsoever, and was just some  challenging religious maze, designed by God to determine who gets the  best bits of paradise.  If so, it might explain, since nothing else can,  how she could be so callous as to sit on those millions of dollars  while children, even in her own part of India, were dying of  starvation.  This defies rational explanation, and I  challenge  anyone, from Morphew to the pope himself, to explain it.]  Và Judith  Hayes kết luận:
    Hiển nhiên là mục đích của bà ta là vơ vét tích tụ tiền bạc.  Để làm gì, ai mà biết được.
    [Apparently her goal was to hoard the money.  To what end, though, is anybody's guess.]
       Năm 1954, viện trợ Mỹ để cho dân di cư nhưng các Cha nhà thờ chỉ để cho  giáo dân và ép người ngoại đạo phải cải đạo vào Ca-tô Giáo nếu muốn  được hưởng viện trợ.  Đó có phải là việc từ thiện hay không hay chỉ là  từ thiện theo tiêu chuẩn của Ca-tô Rô-ma Giáo?
     Người Ca-tô cũng thường quảng cáo cho Ca-tô giáo là đạo của Bác Ái.   Bác Ái là đức tính chung trong thế gian chứ không chỉ riêng trong Ca-tô  Giáo.  Nhưng thực ra bác ái trong Ca-tô Giáo là như thế nào.  Người  Ca-tô thường quảng cáo các viện mồ côi do các sơ trông coi.  Thực chất  các viện mồ côi chỉ là những bình phong của một bộ mặt đạo đức giả,  trong thực tế các sơ đối xử rất tàn nhẫn đối với các trẻ trong đó.   Chúng ta có thể kể vài sự kiện.
 Cách đây ít năm, chương trình Prime Time của đài ABC cũng như chương trình Date Line của đài NBC đều đưa lên vụ kiện 1.2 tỷ đô-la [1.2 billion suit] của những trẻ mồ côi, nay đã trưởng thành, thường được biết là những "Trẻ mồ côi của Duplessis" (Duplessis Orphans). Những đứa trẻ này trước sống trong những viện mồ côi ở Québec, Canada, quản trị bởi các "Sơ của Bác Ái", dưới triều Thủ Tướng Maurice Le Noblet Duplessis, một tín đồ Công giáo bảo thủ cực đoan. Một số những đứa trẻ mồ côi trong số khoảng 3000 còn sống sót này, nay đã trưởng thành, đã lập nên một tổ chức để kiện chính quyền Québec và viện mồ côi St. Julian ở Québec, do các "Grey nuns" (Sisters of Charity) quản trị, về những hành động hành hạ độc ác, ngược đãi, lừa gạt của các Sơ đối với các em khi còn ở trong các viện mồ côi, với sự toa rập của chính quyền Công giáo Québec trước đây và bác sĩ Công giáo.. Độc giả có thể đọc chi tiết đầy đủ về vụ "Duplessis Orphans" trong bài "Bác Ái Của Công Giáo Trong Hành Động" (Catholic Charity in Action) [http://www.lazyboysreststop.com/history-3.htm] và bài "Những Nữ Tu Công Giáo Ác Độc, Lừa Gạt Ở Mỹ Và Trên Khắp Thế Giới" (Abusive Nuns In The USA And Worldwide) trên trang nhà:http://www.ianpaisley.org/new_details.asp?ID=353.
    Thay vì tình thương, các em đã nhận được từ các "Sơ của bác ái"  (Sisters of Charity) sự đánh đập, hành hạ, lạm dụng tình dục, dùng như  là các nô lệ lao động, và một nền giáo dục thô sơ nhất, nếu có. [The  care these children received was reminiscent of a Dickens novel. They  were beaten, tortured, sexually abused, used as virtual slave labor and  provided only the most rudimentary education, if any.]
       Bác ái Ca-tô trong hành động của một số Sơ là như vậy.  Nhưng vấn đề  không chỉ có vậy.  Vấn đề chính là các viện mồ côi hay "nhà thương điên"  của Ca-tô Giáo được trợ cấp của chính quyền và liên bang (Federal).  Và  chúng ta đã biết, tiền và tài sản là quan tâm số một của Ca-tô giáo ở mọi nơi trên thế giới, kể cả Việt Nam.   Vào những thập niên 1940-1960, chính quyền Québec, Canada,  trả cho các  viện mồ côi $0.75 cho mỗi em bình thường (normal), và $2.75 cho mỗi em  bất bình thường (mentally ill).  Do đó Thủ tướng Công giáo Duplessis đã  dàn xếp với các giới chức Ca-tô quản trị các  viện mồ côi, và hầu như chỉ qua đêm, một số các viện mồ côi và trường  học của Ca-tô đã biến cải thành nhà thương điên [Apparently, Duplessis,  and/or some others in his administration, reached an arrangement with  the local Catholic authorities, who operated the orphanages. Virtually  overnight, some of the orphanages and schools were transformed into  psychiatric hospitals.].  Nhà thương điên thì phải có bệnh nhân điên thì  mới có tiền của chính phủ, và một số các em bình thường đã được chuyển  đến các nhà thương điên của Ca-tô giáo này [Children were shipped from  orphanages to existing hospitals. These hospitals also were run by  Catholic religious orders..]  Và để hợp thức hóa tình trạng, các bác sĩ  Ca-tô, được chỉ định bởi Thủ tướng Ca-tô Duplessis, đã làm hồ sơ giả để  chứng thực là các em này  điên thật. [Doctors appointed by Premier Duplessis wrongfully declared  many of them to be mentally ill]. 
    Chỉ  vì sự sai biệt $2.00 cho mỗi đầu người mà cả ngàn các em lành lặn trở  nên bất bình thường, dưới tay của Thủ tướng Ca-tô, bác sĩ Ca-tô, và các  "Sơ của Bác ái Ca-tô".  [Fewer 'normal' orphans and more 'mentally  deficient' children meant more money for the religious orders].  Đặc  biệt hơn nữa là tuy ở trong nhà thương điên, các em cũng bắt buộc phải  lao động không công cho nhà thương [unpaid labor which the children were  forced into during their stays in these asylums.]  Một trường hợp khác  là chính quyền Québec đã trực tiếp chịu trách nhiệm biến cải nhà thương  Ca-tô ở Mont Providence, trước là một viện mồ côi do các "Sơ của bác ái"  lập lên [an orphanage founded  by the Sisters of Charity (Grey Nuns)], thành nhà thương điên.  Sự biến cải này đã giam khoảng 350 đứa trẻ bình thường trong một nhà thương điên [In  the case of the Mont-Providence hospital, the Quebec Government is  directly responsible for its conversion to psychiatric facility. This  change led to the confinement of approximately 350 normal children in a  psychiatric asylum. ]  Chính quyền Duplessis cũng như các dòng tu Ca-tô  đã kiếm được nhiều lợi nhuận bằng cách biến cải các viện mồ côi và  trường học thành các nhà thương điên và xếp các trẻ em bình thường vào  loại những em có bệnh nhân tâm thần. [Duplessis' government gained  financially from turning orphanages and schools into mental hospitals  and reclassifying normal kids into mentally deficient  patients. So did the religious orders that operated these facilities.] 
       Một hành động dã man khác của những sơ trông nom các nhà thương gọi  là điên này là dùng những hình phạt hay biện pháp để kiềm chế những  người điên thật đối với các em nhỏ: bó chặt các em trong những bộ áo đặc  biệt, chữa trị bằng điện giật, cho thuốc quá độ, giam giữ trong những  chuồng hẹp, và ngay cả giải phẫu những giây thần kinh óc [By being  labeled mentally deficient they were subject to treatments such as being  strapped into straightjackets, electroshock therapy, excessive  medication, detainment in cells and even lobotomies.]  Tệ hại hơn cả là  khi giữ các em đó lớn lên, không còn mang lại lợi nhuận, thì các em bị  thảy ra ngoài.   Không  có học vấn và với hồ sơ y tế ngụy tạo về tình trạng tâm thần, các em  không thể sống một cách bình thường như những người trưởng thành khác.   [When no more financial gain could be achieved by keeping them, they are  released from their dreadful existence behind those institution walls.  With no education and false medical records they were well unprepared  for adult life.] Ngay cả hồ sơ về tông tích gia đình của các em cũng bị hủy đi. [Even  traces of their families have been snatched from them.]  Vì vậy, nhiều  em chết trong viện mồ côi hay trong nhà thương được đưa đến bàn mổ của  trường y khoa để cho các sinh viên học.  Có nhiều em chết một cách bất  minh và trong nghĩa địa có những nấm mồ vô danh. Chương trình Prime Time  của đài ABC nói đến những sự ngược đãi và ngay  cả sát hại (mistreatment and even murder] trong các cơ sở "bác ái"  này..  Một số các trẻ mồ côi trước sống trong các viện mồ côi đang vận  động để khai quật những nấm mồ không tên tuổi này để tìm hiểu sự thật về  cái chết bất minh của các em. [A group of orphans are fighting for the  bodies of children to be exhumed from an abandoned Montreal cemetery in a  bid to discover whether they were the subject of medical experiments.  The group has hired a lawyer to ask a court for permission to dig up the  bodies of the children, who were also orphans, and perform forensic  examinations.]
    Chúng ta cũng không nên quên là năm 2003, Peter Mullan đã viết và đạo diễn một phim có tên là "Các Sơ Magdalene" [The  Magdalene Sisters].  Magdalene là một hệ thống các cơ sở của Giáo hội  Ca-tô Ái Nhĩ Lan lập lên để đầy những em gái mà Giáo hội coi là không có  đạo đức, ở đây các em phải lao động tốt không lương suốt đời.  Cuốn  phim dựa trên những sự thật đã xảy ra ở cơ sở này.    Điều kinh khủng  nhất, theo quan điểm của Mullan về các cơ sở Magdalene của Công giáo là các bậc cha mẹ đã bị xiết chặt trong móng vuốt của Giáo hội Ca-tô cho nên đã trở thành đồng lõa trong việc  đầy ải man rợ con cái của mình. [What  is most horrific about Mullan's look at the Magdalene asylums is that  the Church had so strong a grip...that parents would be complicit in the  barbaric treatment of their own children.]  Chúng ta hãy đọc vài nét về  cuốn phim này.
      Đây là một cuốn phim thực sự quan trọng.  Báo của Vatican cho cuốn phim  là một "sự khiêu khích có ác ý thù hận".  Điều quan trọng đáng ghi là  Vatican không cho là cuốn phim là chuyện bịa đặt.  Lên án một cuốn phim  vì đã đưa ra sự thật?  Danh ngôn nói: "Quyền lực thì đồi bại.  Quyền lực  tuyệt đối thì đồi bại một cách tuyệt đối."  Điều này có phải đã xảy ra  trong nhiều cấp trong tôn giáo (Ca-tô giáo).   Cuốn phim này là về những phụ nữ bị coi  là "vô đạo đức" theo tiêu chuẩn của giáo hội bị cưỡng bách loại ra khỏi  xã hội và  cưỡng bách lao động trong những xưởng giặt bằng tay của giáo hội suốt  ngày và mọi ngày để có thể lấy lại ân sủng của Thiên Chúa.  Hơn 30000  phụ nữ đã là nạn nhân.  Họ bị đày ải vô thời hạn và không được trả công,  tuy rằng xưởng giặt được trả tiền cho dịch vụ giặt.  Đó có phải là chế  độ nô lệ không?  Hãy nhớ rằng, các phụ nữ đó không phạm một tội ác nào,  họ chỉ bị giáo hội cho là không có đạo đức.
     [God vs. religion, by cdog1399 (movies profile) Aug 2, 2003:  This  was such an important film. The Vatican newspaper called this film a  "malicious and rancorous provocation." It is important to note it was  not called a fabrication. Condemnation of a film for telling the  truth.?  As the saying goes,: Power corrupts, and absolute power  corrupts absolutely."  Is that not what has happened within many  religious hierarchies ? This movie is about women  considered  "immoral" by the church's standards being forced out of society and  forced to work in a sweatshop doing laundry by hand all day every day to  win back their favor with God. Over 30,000 women were victimized. They  were sentenced for an undetermined time period and were not paid,  although the facility was paid for the services rendered. Isn't that  called "slavery"? Keep in mind, these women had not committed any crime,  they were just deemed immoral.]
   Chúng  ta hãy xem tiêu chuẩn đạo đức của giáo hội Ca-tô Ái Nhĩ Lan (Ai-len)  trong vụ trên là như thế nào.  Cuốn phim đưa ra ba trường hợp điển hình  và những hành động ác ôn (wicked) của các Sơ:
     Nạn nhân thứ nhất, em Margaret, bị một người anh em họ hiếp trong một  lễ cưới trong khi các ông linh mục ca những bài ca truyền thống Ái Nhĩ  Lan.  Em kể ngay việc này với một phụ nữ, thay vì được ủng hộ em trở  thành đối tượng của một âm mưu cho tên hiếp dâm chuồn ra khỏi lễ cưới và  đưa em vào một cơ sở cứu tế Magdalene. [One,  Margaret, is brutally raped by a cousin at a wedding while priests  perform traditional Irish songs. Immediately telling a woman, instead of  support she becomes the subject of a hasty conspiracy to spirit the  rapist from the wedding and to place her in the  Magdalene  asylum.]
    Nạn nhân thứ hai là em Patricia sinh một đứa con mà không có chồng.  Cô  ta bị áp lực của một linh mục phải từ bỏ đứa con và cô ta bị đưa ngay  vào một cơ sở Magdalene. [One of the young women, the shy and angelic Patricia, has a baby out of wedlock.She is pressured by a priest to surrender the baby boy and then she, too, is hustled off to the asylum.]
       Trường hợp thứ ba là em Bernadette đang sống trong một viện mồ côi.   Tội của em là dám đứng trong hàng rào tán gẫu với mấy cậu con trai trong  làng bị sắc đẹp của em quyến rũ đứng ở ngoài hàng rào.  Chỉ vì vậy mà  em bị chuyển đi làm lao động trong cơ sở Magdalene. [The third victim is  in an orphanage where she gets under the director's skin for no other  offense than she is pretty and boys from the neighborhood crowd a fence  to call down to her. Transfer to the asylum follows.]
        Bài học chúng ta học được từ những sự kiện trên là: "Đừng tin những gì người Ca-tô nói mà hãy nhìn kỹ vào những gì họ làm".   Lẽ dĩ nhiên, tin sao là quyền của họ, chẳng ai có thể nói gì về niềm  tin tôn giáo đó.  Nhưng về phương diện lịch sử và xã hội, người Ca-tô  Việt Nam nên tự hỏi tại sao Ca-tô Rô-ma Giáo lại suy thoái trầm trọng ở  nay cái nôi của Ca-tô Giáo trước đây là Âu Châu, đến độ Hội Đồng Giám  Mục Âu Châu phải than phiền là "Âu châu ngày nay sống như là không có Thiên Chúa" và Giáo hoàng benedict XVI cũng phải than phiền là "Âu Châu ngày nay sống như là không  biết  đến Thiên Chúa và cũng chẳng cần đến sự "cứu rỗi" của Giê-su nữa".   Hiện tượng suy thoái trên tất nhiên phải có lý do.  Tôi nghĩ những tín  đồ Ca-tô Việt Nam nào còn có chút đầu óc thì cũng phải cảm thấy xấu hổ  vì cái lịch sử tàn bạo đẫm máu của tôn giáo mình, so với các tôn giáo  khác như Phật Giáo, Lão Giáo v…v…  Họ cũng phải cảm thấy xấu hổ vì một  số không nhỏ những "bề trên" của mình, từ giáo hoàng trở xuống cho đến  Hồng Y, Tổng Giám Mục, Giám mục và Linh Mục mà mình vẫn được dạy phải  cúi đầu "quên mình trong vâng phục", lại quá vô đạo đức, vô lương tâm,  vô nhân tính.  Họ cũng phải cảm thấy ngượng ngùng, nếu họ còn biết  ngượng, trước người ngoại đạo là tại sao mình vẫn còn bị mê  hoặc, tiếp tục ở trong một một tôn giáo mà cái lịch sử tàn bạo ô nhục  đẫm máu của nó là một sự kiện không thể chối cãi, và nhất là, vẫn còn  tin vào những điều đượm màu hoang đường mê tín đã không còn giá trị  trong các xã hội văn minh tân tiến ngày nay.  Như vậy có phải thật là  đáng buồn không? 
     Trần Chung Ngọc.
     Viết xong ngày Lễ Độc Lập, 2011
  
 
No comments:
Post a Comment